Niềm tin rằng con người được phú
cho tự do về ý chí sẽ bảo đảm cả nhận thức tôn giáo về “tội lỗi” lẫn lý tưởng
công bằng về loại “công lý trả thù” của chúng ta. Điều này khiến tự do ý chí
trở nên một vấn nạn hơn là quan tâm triết học tình cờ.
Không có tự do về ý chí, những
người có tội sẽ bị xét đoán một cách nghèo nàn máy móc, và bất kỳ khái niệm
công lý nào nhấn mạnh đến việc trừng phạt họ (hơn là cải tạo giáo dục hoặc chỉ
cô lập ngăn chặn họ ) sẽ trở thành không thích hợp. Sung sướng thay, chúng ta sẽ
nhìn thấy rằng mình không hề cần đến các ảo tưởng về vị trí của một con người
trong cái trật tự nhân quả để quy kết trách nhiệm cho hành vi của người ấy, hay
để tự mình hành động gì. Chúng ta có thể tìm ra những nền tảng vững chắc cho
luân lý và luật lệ mà không phải chịu thua trước bất cứ ảo tưởng nhận thức hiển
nhiên nào.
Tự do ý chí thực ra hơn (hay kém)
một ảo tưởng trong sự thể ngay cả không thể hiện được mạch lạc một cách có ý
thức, bởi vì chưa có ai từng diễn tả được một tính cách nào trong đó các sự
kiện vật chất và tinh thần có thể từng xuất hiện nhằm chứng thực cho sự hiện
hữu của nó. Chắc chắn hầu hết các ảo tưởng được hình thành từ những chất liệu
cầu kỳ hơn. Chẳng hạn, nếu một người tin những chỗ trám răng của anh ta nhận
được các tín hiệu phát thanh, hoặc tin rằng em gái mình đã bị tráo bởi một
người hành tinh có nhân dạng giống hệt cô ấy, anh ta sẽ không gặp khó khăn gì
để định rõ những gì trên thế gian này phải là sự thật để những điều anh tin
được trở thành hoặc chính là sự thật. Lạ thay, nhận thức của chúng ta về “tự do
ý chí” không hề có lưu trữ những điều dễ hiểu ấy. Như một khái niệm, tự do ý
chí đơn giản không hề có một nền tảng logic nào hoặc ngay cả có thể mô tả được.
Tựa như một số đoá hồng nganh ngạnh, mùi vị khác thường, tuy chúng ta cố để
thưởng thức vẻ đẹp của nó ở khoảng cách gần, nhưng đóa hoa ấy vẫn chỉ chào mời
cái phản nghịch cố hữu của nó.
Dĩ nhiên, ý tưởng tự do ý chí là
một sản phẩm giả mạo thời cổ đại của triết học, đồng thời cũng là một chủ đề
quan tâm phụ, nếu bắt gặp được, giữa các nhà khoa học.– thí dụ như: M. Plank,
trong Where is Science Going? dịch và biên tập bởi J. Murphy (1993; bản in lại,
Woodbridge , Conn. :Ox Bow Press, 1981); B. Libet, “Do We
Have Free Will?” Journal of Consciousness Studies 6, nos. 8-9 (1999): 47-57; S.
A. Spence và C. D. Frith, “Towards a Functional Anatomy of Volition”, ibid.,
11-29; A. L. Roskies, “Yes But am I Free?” Nature Neuroscience 4 (2001): 1161,
và D. M. Wegner, The Illusion of Conscious Will (Cambridge : MIT Press 2002). Tuy nhiên, từ lâu
nay đã rõ ràng là bất cứ một mô tả nào về ý chí trong các ý nghĩa về nguyên
nhân và kết quả đã khiến chúng ta bị trôi tuột về khối băng lạnh của đạo đức và
logic, khiến ý chí của chúng ta hoặc bị định đoạt bởi những nguyên nhân có
trước, mà chúng ta không thể có trách nhiệm gì về chúng, hoặc chỉ là sản phẩm
của sự tình cờ mà chúng ta cũng không thể có trách nhiệm gì về chúng cả.
Quan điểm về tự do ý chí dường
như đã đặc biệt bị nghi ngờ một khi ta bắt đầu suy nghĩ về não bộ. Nếu việc
“lựa chọn” việc bắn chết vị tổng thống của một ai đó được định đoạt từ một số
khuôn mẫu hoạt động của não bộ, và loại khuôn mẫu này là hậu quả từ một nguyên
nhân nào có trước đó – có thể là từ một trùng hợp ngẫu nhiên nào đó về một tuổi
thơ bất hạnh, hoặc do yếu tố di truyền xấu hoặc do các tia bức xạ trong vũ trụ
- vậy làm sao có thể cho rằng ý chí của y là “tự do”?
Bất chấp các nỗ lực phi thường
của nhiều triết gia đã tìm các phương cách để đem tự do ý chí đến sự “tương
thích” với các tầm quan trọng của cả tính quyết định lẫn tính không quyết định
của tâm thức và não bộ, các công trình này dường như không có hy vọng gì. Kéo
dài tự do ý chí, một khó khăn cần đến để phân tích, đã góp phần vào cái thực tế
là hầu hết mọi chúng ta cảm thấy rằng mình là tác giả một cách tự do cho các
hành động và các hành vi có chủ ý của mình (bất chấp các khó khăn phải có khi
cần đến sự hợp lý trong các ý nghĩa về logic và khoa học của nhận định này). Có
thể không sai để nói rằng không hề có một ai từng tận hưởng được sự hiện hữu
của tự do ý chí bởi vì tự do ý chí mang chứa một hứa hẹn lớn lao như là một tư
tưởng trừu tượng không thực.
Trong các ý nghĩa vật chất, mỗi
hành vi đều rõ ràng quy về một tổng thể của các sự kiện khách quan chỉ đơn
thuần phát triển ảnh hưởng của chúng: các yếu tố di truyền đã được ghi lại, các
xung động thần thần kinh bám chặt vào các cơ quan cảm nhận của chúng, các xớ cơ
bắp co bóp lại, khiến kẻ vô danh John Doe lẩy cò súng của mình. Để các khái
niệm thông thường của chúng ta về chức năng có được giá trị, các hành vi của
chúng ta không thể chỉ là các sản phẩm hợp pháp của sinh học, của các điều kiện
của chúng ta, hoặc bất cứ điều gì khác khiến có thể đưa đến việc người khác
tiên đoán được chúng - và tuy vậy, nếu các hành vi của chúng ta thực sự ly hôn
khỏi một hệ thống nhân quả như thế, chúng nên trở nên đúng là những gì mà từ đó
chúng ta có thể khẳng định là không có trách nhiệm.
Đã từng là một thứ thời thượng từ
vài thập niên qua đến nay, để suy đoán về tính cách nào mà tính bất định của
quán tính đã được tiến hành, ở tầm mức của phân tử hay các phần tử của nó,
khiến sản sinh một hình thái đời sống tinh thần thoát khỏi được quy luật nhân
quả; nhưng một suy đoán như thế hoàn toàn đi lệnh đến một nội dung gần xảy ra -
bởi vì một thế giới trung gian, điều phối bởi cơ may hay các khả năng quán
tính, sẽ không thể ban quyền tự trị đến các tác nhân con người hơn là ban cho
việc rút thăm liên tục.
Trong diện mạo của bất cứ sự độc
lập thực sự nào từ các nguyên nhân trước, mọi biểu hiện sẽ xứng đáng với câu
nói "tôi không biết cái gì đã bao phủ lên tôi". Trước tiếng tù và của
tình trạng tiến thoái lưỡng nan này, những người hâm mộ tự do ý chí sẽ có thể
thường được biết đến sự xữ dụng các ngôn từ triết học sâu xa, trong nỗ lực muốn
làm cho trực giác của chúng ta về một trách nhiệm đạo đức của một con người
được miễn nhiễm với các lo âu về quan hệ nhân quả. (Đọc Ayer, Chisholm,
Strawson, Frankfurt, Dennett và watson - tất cả trong tác phẩm của G. Watson,
ed., Free Will [Oxford :Oxford
Univ. Press, 1982] ). Mặc dù chúng ta không tìm được chỗ đứng cho nó trong quy
luật nhân quả, quan điểm tự do ý chí vẫn được hưởng một sự tôn kính đáng kể
trong tàng thư khoa học và triết học, ngay cả từ các khoa học gia tin rằng tâm
trí hoàn toàn lệ thuộc vào hoạt động của não bộ.
Điều mà đa số mọi người không
nhìn thấy là tự do ý chí không hề phù hợp ngay cả với bất cứ sự thực chủ quan
nào về chúng ta. Hậu quả là, ngay cả một sự xem xét nội tâm chính xác chẳng bao
lâu sẽ phát triển thành đối nghịch với ý tưởng tự do ý chí như các phương trình
vật lý thường có, bởi vì các hành vi hiển nhiên của ý muốn chỉ đơn thuần xuất
hiện, ngay tức thì (bất kể là do được gây nên hoặc không, hoặc có khuynh hướng
thiên về theo tính xác suất cũng không tạo ra khác biệt gì), và không thể truy
tìm về điểm xuất phát trong dòng ý thức. Bằng một hay hai khoảnh khắc tự kiểm
tra nghiêm túc độc giả sẽ nhận thấy rằng mình không hề là tác giả của ý tưởng
mình sắp nghĩ đến hơn là ý tưởng mà tôi sắp viết ra.
Trích Trong Chú thích - Một nền
Khoa Học của Thiện và Ác
Lê Quốc Tuấn chuyển Việt
Xem thêm: Tựdo ý chí là một ảo tưởng?