Ở nhiều quốc gia, người ta đã từng nhiệt tình, hăng hái xây dựng một xã hội như một "thiên đường nơi trần gian", để rồi sau vài chục năm nhìn lại, thì tất cả đều ngỡ ngàng, khổ đau ê chề vì tất cả đang trên con đường quay trở về "địa ngục nơi hạ giới", trở về chính cái xã hội "Nô lệ" mà mình đã bị cột chặt cả về thể xác lẫn tinh thần - cái xã hội tái xuất này luôn có một phần ở tình trạng đói nghèo, nô dịch về văn hóa, tha hóa hoàn toàn về đạo đức và chúng ta đã từng vượt qua. Như vậy, con người đã quay ngược bánh xe lịch sử, tái trở lại xã hội mà đã từng bị bãi bỏ, bị phủ định nhưng ở một hình thức mới mà đến những người gọi là trí thức ở xã hội đó cũng chỉ "lờ mờ" nhìn ra.
Những chênh lệch quá lớn như vậy, xảy ra qua nhiều năm, các ý tưởng cơ bản, trật tự và thành quả ở mức tổng thể xã hội, mức cục bộ cá nhân không phải bất kỳ ai cũng nhận ra, cũng nghiên cứu rành rẽ và phát biểu đầy đủ. Từ những con người hừng hực hy vọng và tham vọng lớn lao, mỗi con người có thể đang đối mặt với sự khiếp sợ của chế độ chuyên chế, các thế hệ đang sống với tương lai mờ mịt và bế tắc với sự thay đổi. "Đường về Nô lệ" khó có thể đảo ngược được dù cho ban đầu, không ai ở những thế hệ đầu tiên lại có thể cảnh báo, liên kết được giữa lý tưởng tươi sáng với hiện thực đen tối đó. Định mệnh của mỗi chúng ta trong một quốc gia nằm ở chính hoạt động và cơ chế chúng ta theo đuổi từ ngày đầu.
Điều nêu ra ở đây đã được những triết gia cảnh báo cho chúng ta từ hàng chục năm nay. Năm 1944 F. A. Hayek đã xuất bản cuốn sách kinh điển "The Road to Serfdom" , với hai bản dịch tiếng Việt là "Đường về Nô lệ" của dịch giả Phạm Nguyên Trường và "Con đường dẫn tới Chế độ Nông nô" của dịch giả Nguyễn Quang A.
Cuốn sách cảnh tỉnh chúng ta rằng, khi ta bị tước bỏ quyền tự do kinh doanh, chúng ta đã ngày càng bị tước bỏ quyền tự do cá nhân và quyền tự do chính trị từ trước đó. Và cùng với nhiều nhà tư tưởng chính trị từ thế kỷ 19 như De Tocqueville và Lord Acton cảnh báo, nhiều nước vẫn tiến thẳng theo hướng về chế độ "Nô lệ mới" mà quên mất những cảnh báo đầy trí tuệ uyên thâm đó. Hãy xem những tiên đoán của De Tocqueville về “tình trạng nô lệ mới” như sau:
"... sau khi đã tóm lấy mỗi thành viên của cộng đồng dưới quyền lực hùng mạnh của nó, và nhào nặn anh ta một cách tuỳ ý, quyền lực tối cao sau đó dương tay ra tóm toàn bộ cộng đồng.
Nó bao phủ bề mặt của xã hội bằng một mạng lưới các qui tắc nhỏ phức tạp, chi li và cùng một kiểu, qua đó những người có trí tuệ độc đáo nhất và có tính cách năng động nhất cũng không thể xuyên qua để vượt lên trên đám đông.
Ý chí của con người không bị phá huỷ hoàn toàn, mà được làm mềm đi, được nắn cong và được hướng dẫn; nó hiếm khi buộc những con người hành động, nhưng họ liên tục bị kiềm chế khỏi hành động. Một quyền lực như vậy không phá huỷ, nhưng nó ngăn cản sự tồn tại; nó không cai trị một cách hung tàn, nhưng nó đè nén, làm kiệt sức, làm lu mờ, và làm u mê một dân tộc, cho đến khi mỗi quốc gia bị sa sút thành chẳng gì hơn một bầy động vật công nghiệp nhút nhát, mà chính phủ là người chăn dắt.
Tôi đã luôn luôn nghĩ rằng tình trạng nô lệ loại chính qui, yên lặng, và dịu dàng đó, loại tôi vừa mô tả, có thể được kết hợp dễ dàng hơn so với người ta thường tin với một số dạng bề ngoài nào đó của quyền tự do và rằng nó có thể thậm chí được thiết lập dưới sự giúp đỡ của chủ quyền nhân dân”.
(A. De Tocqueville, Nền dân trị Mỹ)
Những điều trên đây dấu hiệu như thế nào, nguyên nhân là vì sao, làm sao thoát khỏi chúng? Qua cuốn sách thú vị "Đường về nô lệ", Hayek làm rõ gần như tất cả, nhất quán với thông điệp: Bất cứ thể chế nào quốc hữu hóa tư liệu sản xuất của xã hội và kế hoạch hóa tập trung thì sớm muộn cũng dẫn đến sự bất bình đẳng, nghèo khổ hay là Chế độ Nô lệ... và ông phát biểu luôn tuyên ngôn chính trị của trường phái tân tự do, mà ông là chủ soái. Tuyên ngôn làm hồi sinh và phát triển học thuyết kinh tế tự do (laiser-faire) của Adam Smith (1723 - 1790) đối lập với trường phái tân cổ điển do J. M. Keynes (1883 - 1946) chủ trương sự can thiệp mạnh của Nhà nước vào các hoạt động kinh tế.
Cuốn sách này đã được coi là cẩm nang của nhiều nền kinh tế: Anh và Mỹ vào những năm 80 của thế kỷ trước dưới thời của Thatcher và Reagan; Nga và các nước Đông Âu với nền kinh tế chuyển đổi thời kỳ sau 1990, và Trung Quốc từ khi mở cửa 1978… Cuốn sách phản ánh đầy đủ tư duy kinh tế - xã hội phong phú và sâu sắc của tác giả. Xin mời bạn đọc nghiên cứu bản dịch của Nguyễn Quang A hoặc tìm đọc bản dịch của Phạm Nguyên Trường theo cuốn sách của NXB Tri thức.
Bùi Quang Minh giới thiệu
Bạn có thể download – tải sách TẠI ĐÂY