Thiền định cùng Krishnamurti

Tâm thiền thì im lặng. Không phải sự im lặng mà ý nghĩ có thể nhận biết bằng khái niệm, cũng không phải sự im lặng của một buổi chiều tịch mịch, mà là sự im lặng khi ý nghĩ, với tất cả hình ảnh, ngôn từ và nhận thức của nó hoàn toàn chấm dứt.

Tâm thiền là tâm đạo, một thứ đạo giáo chưa hề bị thánh đường, đền chùa và sự tụng niệm đụng đến. Tâm đạo là sự bùng nổ của tình yêu. Tình yêu này không hề biết đến phân biệt. Đối với nó xa là gần. Nó không phải cái một hay cái nhiều, mà đúng ra trong trạng thái yêu đó mọi phân chia đều chấm dứt. Cũng như cái đẹp, nó không thuộc về sự đo lường của ngôn từ. Chỉ từ sự im lặng này tâm thiền hoạt động.

Thiền là một trong những nghệ thuật vĩ đại nhất trong cuộc sống – có lẽ là vĩ đại nhất, và một người không thiền học thiền từ bất cứ ai. Đó chính là cái đẹp của thiền. Thiền không có pháp môn nên không có uy quyền.

Khi bạn biết rõ chính bạn, quan sát chính bạn, quan sát kiểu bạn đi, cách bạn ăn, lời bạn nói, chuyện tầm phào, lòng hận thù, thói ganh ghét – nếu bạn biết rõ tất cả những thứ đó trong chính mình mà không chọn lựa thì đó là một phần của thiền.

Như thế bạn có thể thiền trong lúc ngồi xe bus, bộ hành trong khu rừng đầy ánh sáng và bóng cây, lắng nghe tiếng chim hót, hay ngắm nhìn khuôn mặt của vợ, con.

Thật kỳ lạ khi thiền trở nên quan trọng một cách toàn diện như thế; thiền không có sự kết thúc và cũng không có sự khởi đầu.

Thiền cũng giống như giọt mưa: trong giọt nước đó là tất cả suối nguồn, sông dài, biển rộng và thác ghềnh; giọt nước đó nuôi sống trái đất và nhân loại; không có nước mưa, trái đất chỉ là sa mạc.

Không có thiền trái tim trở thành một sa mạc, một hoang địa.

Thiền là tìm xem bộ óc với tất cả những hành hoạt, kinh nghiệm của nó có thể im lặng hoàn toàn. Nhưng không gò ép, vì ngay khi gò ép thì nhị nguyên sinh khởi. Cái thực thể nói rằng: “Ta muốn hưởng những kinh nghiệm tuyệt diệu, vì thế ta phải bắt bộ óc im lặng” sẽ không bao giờ làm được việc đó.

Nhưng nếu bạn tìm hiểu, quan sát, lắng nghe mọi động thái của ý nghĩ, những gì nó bị điều kiện hóa, những gì nó theo đuổi, những gì nó sợ hãi, những gì nó thích thú; nếu quan sát bộ óc hoạt động như thế nào thì bạn sẽ thấy nó trở nên tĩnh lặng lạ thường; sự tĩnh lặng đó không phải trạng thái ngủ yên mà sinh động mãnh liệt, nên tĩnh lặng. Một cỗ máy lớn hoạt động thật hoàn hảo không bao giờ phát ra tiếng động; chỉ khi nào có ma sát thì mới có tiếng ồn.

Im lặng đi cùng với sự bao la. Sự vô biên của im lặng là sự vô biên của tâm trong đó không có sự hiện hữu của một tâm điểm.

Thiền là việc khó. Nó đòi hỏi một hình thức kỷ luật cao nhất – không phải sự tuân hành, không phải sự bắt chước và cũng không phải sự vâng lời – mà là một kỷ luật đạt được qua sự thường xuyên thấy biết những gì đang xảy ra với bạn, bên ngoài lẫn bên trong. Như vậy thiền không phải là một sinh hoạt cô lập mà là hành động trong đời sống hàng ngày, nó đòi hỏi sự phối hợp, tính nhạy bén và trí tuệ.

Nếu không đạt được một nền tảng cho một cuộc sống chân chính, thiền chỉ là sự chạy trốn và do đó hoàn toàn vô giá trị. Sống chân chính không có nghĩa là tuân thủ đạo đức xã hội, sống chân chính không còn tham lam, ganh ghét và mưu cầu quyền thế - nghĩa là những thứ nuôi dưỡng sự thù nghịch.

Không còn tham lam, ganh ghét và mưu cầu quyền thế không phải là kết quả của hành vi ý chí mà là sự tỉnh thức về chúng qua sự biết rõ chính mình. Nếu không biết rõ hành hoạt của chính ta, thiền trở nên một hưng phấn mang tính cảm quan và do đó chẳng có gì quan trọng.

Luôn luôn tìm cầu những chứng nghiệm bao la hơn, thâm sâu hơn và mang tính siêu phàm thoát tục chỉ là hình thức trốn tránh thực tại “đang là”, có nghĩa là chính mình, cái tâm bị điều kiện hóa của chính mình.

Một cái tâm tỉnh thức, sáng suốt và tự do tại sao lại cần chứng nghiệm, tại sao lại phải có chứng nghiệm?

Ánh sáng là ánh sáng; ánh sáng không cần thêm ánh sáng.

Thiền là một trong những điều kỳ diệu nhất, và nếu không biết thiền là gì thì bạn cũng như một người mù trong một thế giới của màu sắc rực rỡ, bóng mờ và ánh sáng lung linh. Thiền không phải là một vấn đề trí thức, mà khi quả tim hội nhập tâm thì tâm có một phẩm chất hoàn toàn khác; lúc đó tâm thật sự vô hạn, không những trong khả năng tư duy và hành động một cách hữu hiệu, mà còn trong cảm nhận của nó về sự sống trong một không gian bao la, trong đó bạn là một phần trong mọi vật.

Thiền là động thái của tình yêu. Nó không phải tình yêu của cái một hay cái nhiều. Thiền cũng như nước mà ai cũng có thể uống từ một cái hũ, dù là bằng vàng hay bằng đất nung, nước đó không bao giờ cạn kiệt. Và một điều thật kỳ lạ xảy ra mà không có loại ma túy hay phép tự kỷ ám thị nào có thể đem lại; như thể là hội nhập chính nó, bắt đầu từ bề mặt rồi thẩm thấu sâu dần, cho đến khi chiều sâu và độ cao không còn ý nghĩa và mọi hình thức đo lường chấm dứt.

Trong trạng thái này chỉ còn sự an lạc hoàn toàn – không phải trạng thái thỏa  mãn do sự hài lòng mang lại – mà là sự an lạc trong sự ổn định, cái đẹp và cường độ. Nó có thể bị phá hủy hoàn toàn như bạn hủy hoại một đóa hoa, nhưng vì tính mong manh của nó nên nó bất hoại. Loại thiền này không thể học từ người khác. Bạn phải bắt đầu mà không biết gì về nó, và di chuyển từ hồn nhiên này đến sự hồn nhiên khác.

Miếng đất trong đó tâm thiền có thể nảy mầm là miếng đất của cuộc sống thường nhật với những tranh giành, đau đớn và niềm vui qua nhanh. Thiền phải bắt đầu từ đó, đem lại sự bình ổn, và từ đó vận hành không ngừng. Nhưng nếu bạn chỉ quan tâm đến tạo sự bình ổn thì chính sự bình ổn sẽ đem lại giới hạn của chính nó, và giam giữ tâm.

Trong toàn thể sự vận hành này, bạn phải bằng cách nào đó bắt đầu từ bên kia, từ bỉ ngạn, và đừng bao giờ bận tâm về bờ bên này, hay làm thế nào để qua sông. Bạn phải lao mình vào giòng nước mà không hề biết bơi. Cái đẹp của thiền ở chỗ bạn không bao giờ biết mình ở đâu, đang đi đâu, và kết cuộc là gì.

Thiền không phải một cái gì khác với cuộc sống hàng ngày; đừng vào góc phòng tọa thiền năm mười phút, rồi trở ra làm đồ tể - cả ẩn dụ lẫn thực tế.

Nếu khởi sự hành thiền thì không phải thiền. Nếu khởi sự làm tốt thì cái tốt chẳng bao giờ nở hoa. Nếu rèn luyện đức khiêm cung thì khiêm cung không còn nữa.

Thiền là ngọn gió mát thổi vào khi bạn để cửa mở, nhưng nếu bạn cố tình để cửa mở và tìm cách mời mọc thì gió thiền sẽ chẳng bao giờ xuất hiện.

Thiền không phải là phương tiện để đạt đến cứu cánh. Thiền vừa là phương tiện lẫn cứu cánh.

Thiền là một cái gì đó thật lạ thường. Nếu có bất cứ gò ép hay cố gắng buộc ý nghĩ phải tuân thủ, bắt chước, thì lúc đó thiền là cả một gánh phiền trược. Sự im lặng được mong cầu thì sự im lặng sẽ ngưng tỏa sáng.

Nếu thiền là sự đuổi theo linh ảnh và kinh nghiệm thì chỉ đưa đến ảo giác và tự kỷ ám thị. Chỉ trong sự mãn khai của ý nghĩ và như vậy chấm dứt ý nghĩ thì thiền mới có một ý nghĩa quan trọng.

Ý nghĩ chỉ có thể mãn khai trong tự do chứ không theo những khuôn mẫu không ngừng mở rộng của kiến thức. Kiến thức có thể mang lại những kinh nghiệm mới hơn của xúc cảm lạ hơn, nhưng một cái tâm tìm cầu đủ mọi loại kinh nghiệm thì còn ấu trĩ. Trưởng thành là thoát ra khỏi mọi kinh nghiệm; không còn chịu bất cứ ảnh hưởng nào để hiện hữu hay không hiện hữu.

Trưởng thành trong thiền là giải thoát tâm khỏi kiến thức, vì kiến thức hình thành và kiểm soát mọi kinh nghiệm. Một cái tâm là ánh sáng của chính nó thì không cần đến kinh nghiệm. Khao khát kinh nghiệm lớn hơn và rộng hơn là còn ấu trĩ. Thiền là ngao du trong thế giới của kiến thức rồi thoát ra khỏi thế giới ấy để vào cái bất khả tri.

Một người phải tự khám phá cho chính mình mà không phải qua bất cứ ai. Chúng ta có đủ thứ uy quyền, nào là của sư phụ, của đấng cứu thế, và của tôn sư. Nếu thực sự muốn biết thiền là gì thì bạn phải dẹp bỏ tất cả mọi uy quyền.

Bạn có thể mua hạnh phúc và lạc thú bằng một giá nào đó ở chợ, nhưng bạn không thể mua được sự an lạc, dù là cho chính mình hay cho người khác. Hạnh phúc và lạc thú tùy thuộc vào thời gian.

Chỉ khi nào hoàn toàn tự do thì mới có an lạc. Bạn có thể tìm thấy lạc thú cũng như hạnh phúc bằng nhiều cách, nhưng chúng đến và đi. An lạc – cái cảm giác vui sướng lạ thường đó – không vì một nguyên do mà có. Bạn không thể tìm kiếm an lạc.

Khi an lạc đến thì tùy vào phẩm chất của tâm mà nó lưu lại – vô thời, vô nguyên nhân, một thứ không thể đo lường bằng thời gian. Thiền không phải là sự theo đuổi lạc thú hay tìm cầu hạnh phúc. Trái lại, thiền là trạng thái của tâm trong đó không có khái  niệm hay công thức, và do đó hoàn toàn tự do.

An lạc chỉ đến với một cái tâm như thế, không tìm cầu và cũng không mời gọi. Một khi nó hiện hữu, dù cho bạn sống trong thế gian này với tất cả sự huyên náo, lạc thú và tàn bạo thì chúng vẫn không thể đụng đến được tâm. Một khi nó hiện hữu, xung đột chấm dứt. Nhưng chấm dứt xung đột không nhất thiết là hoàn toàn tự do. Thiền là sự vận hành của tâm trong sự tự do đó. Trong sự bùng nổ này của an lạc, mắt trở nên vô tư và lúc đó tình yêu là phước báu.

Không biết bạn có nhận thấy khi chú ý một cách tuyệt đối thì có sự im lặng hoàn toàn. Trong sự chú ý đó không có biên giới, và cũng không có tâm điểm, như cái “tôi”, người biết hay người chú ý. Sự chú ý đó, sự im lặng đó là một trạng thái của thiền.

Hình như không bao giờ chúng ta lắng nghe tiếng sủa của một con chó, tiếng khóc của một đứa trẻ, hay tiếng cười của một người đi qua. Chúng ta tự tách biệt mình với mọi vật, và từ sự cô lập đó chúng ta nhìn và nghe thế giới bên ngoài. Chính sự tách biệt này mang tính tiêu diệt, vì trong đó đầy xung đột và hỗn loạn.

Nếu lắng nghe tiếng chuông với sự im lặng tuyệt đối, bạn có cưỡi lên nó – hay, đúng hơn tiếng chuông sẽ chuyên chở bạn băng qua thung lung và vượt đồi. Bạn chỉ cảm thấy cái đẹp khi bạn không tách biệt với tiếng chuông. Thiền là chấm dứt sự tách biệt, nhưng không bằng hành vi của ý chí hay mong cầu.

Thiền không phải là cái gì đó tách biệt với cuộc sống; thiền là tinh hoa của cuộc sống, là tinh túy của đời sống hàng ngày. Lắng nghe tiếng chuông, lắng nghe tiếng cười của người nông dân khi anh ta cùng vợ đi qua, lắng nghe tiếng chuông xe đạp của cô bé chạy ngang: đó là toàn thể cuộc sống, chứ không phải một phần của nó mà thiền khai mở.

Thiền là thấy cái “đang là” và siêu vượt nó.

Nhận thức vô ngôn – có nghĩa là nhận thức không có ý nghĩ – là một trong những hiện tượng lạ lùng nhất. Lúc đó nhận thức bén nhạy hơn rất nhiều, không chỉ riêng với bộ óc mà còn với tất cả giác quan. Nhận thức như thế không phải là nhận thức manh múm, rời rạc của tri thức mà cũng không phải vấn đề cảm xúc. Nó có thể gọi là nhận thức toàn diện, và là một phần của thiền.

Nhận thức mà không có người nhận thức trong thiền là dung thông với độ cao và chiều sâu của vô biên. Nhận thức này hoàn toàn khác với sự thấy một vật mà không có người quan sát, vì trong nhận thức của thiền không có vật, do đó không có kinh nghiệm. Thiền có thể xảy ra khi người ta vẫn mở mắt và ở giữa muôn vật, nhưng vào lúc đó chúng chẳng có một ý nghĩa quan trọng nào.

Thiền giả vẫn thấy chúng nhưng không có tiến trình nhận biết qua hồi tưởng, có nghĩa là không có hành vi kinh nghiệm. Thiền như thế có ý nghĩa gì? Nó chẳng có một ý nghĩa gì vì không có sự hưởng dụng.

Trong thiền có động thái của cực lạc, nhưng không nên nhầm lẫn với lạc thú. Chính niềm cực lạc này đem lại cho mắt, bộ óc và trái tim cái phẩm chất hồn nhiên. Nếu không thấy được cuộc sống là một cái gì đó là hoàn toàn khác thì cuộc đời chỉ là sự lập lại của những thói quen, buồn tẻ và vô nghĩa. Như vậy thiền là vô cùng quan trọng. Thiền mở cánh cửa vào cái bất khả tính toán, cái bất khả đo lường.

Thiền không bao giờ xảy ra trong thời gian; thời gian không thể đem lại sự đột biến. Thời gian có thể đưa đến thay đổi, để rồi sau đó chính sự thay đổi cần phải thay đổi nữa, giống như mọi cuộc cải tổ.

Thiền phát sinh từ thời gian thì luôn luôn ràng buộc, trong đó không hề có tự do và nếu không có tự do thì luôn luôn có lựa chọn và xung đột.

Chúng ta phải thay đổi cơ cấu xã hội của chúng ta, sự bất công, thứ đạo đức đáng ghê tởm của nó; những phân chia mà nó đã gây ra giữa người và người, chiến tranh, sự thiếu vắng tình cảm và tình yêu là những gì đang tàn phá thế gian này.

Nếu việc hành thiền của bạn chỉ là chuyện riêng tư, một niềm vui thích cá nhân thì không phải là thiền. Thiền bao hàm một sự thay đổi tận căn nguyên tâm thức và con tim. Điều này chỉ có thể xảy ra khi có sự cảm nhận lạ thường về sự im lặng nội tâm, và chỉ sự im lặng đó đem đến đạo tâm. Đạo tâm biết được cái gì là thiêng liêng.

Chúng ta cùng tìm hiểu liệu có thể nào bạn và tôi, ngay tức thời, có thể thay đổi trọn vẹn và nhập vào một chiều kích hoàn toàn khác – và điều này liên quan đến thiền.

Thiền là một cái gì đó đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, tính nhạy bén, sự dung chứa của tình yêu và cái đẹp, chứ không phải hành theo một pháp môn được một đạo sư nào đó đặt ra.

Thiền là vô tư với thời gian.

Thiền không phải là trốn tránh thế gian, thiền không phải là một sinh hoạt cô lập và khép kín với cái tôi, mà đúng ra thiền là hiểu rõ thế gian cùng những lề thói của nó. Ngoài chuyện cơm ăn, áo mặc, chỗ ở, thú vui và muôn vàn đau khổ, thế gian này chẳng có bao nhiêu để cống hiến.

Thiền là ngao du khỏi thế gian. Bạn phải là người ngoại cuộc hoàn toàn thì lúc đó thế gian này mới có một ý nghĩa, và vẻ đẹp của các tầng trời và trái đất này mới là vĩnh cửu. Lúc đó tình yêu không phải là lạc thú. Mọi hành động khởi sinh từ tình yêu này đều không phải là những kết quả của những căng thẳng, mâu thuẫn, sự tìm kiếm thỏa mãn cái ta, hay thói ngạo mạn của quyền lực.

Nếu bạn chủ định chọn một thái độ, một tư thế để thiền thì thiền trở thành một trò giải trí, một món đồ chơi của tâm. Nếu bạn nhất quyết thoát ly sự hỗn loạn và khốn khổ của cuộc đời thì thiền trở thành một kinh nghiệm của trí tưởng tượng, và đó không phải là thiền.

Cái tâm hữu thức hoặc cái tâm vô thức không được dự phần trong thiền, thậm chí hai cái tâm này cũng không được biết đến sự trải rộng và cái đẹp của thiền: nếu chúng biết được thì tốt hơn bạn nên đi mua một cuốn tiểu thuyết lãng mạn về xem.

Trong sự chú ý tuyệt đối của thiền không hề có cái biết, không hề có sự nhận biết qua hồi tưởng, cũng không hề giống với một cái gì đó đã từng xảy ra. Thời gian và ý nghĩ hoàn toàn chấm dứt, vì chúng là cái tâm điểm tự giới hạn tầm nhìn của chính nó.

Ngay khi ánh sáng ló dạng thì ý nghĩ tan biến, và cố gắng hữu thức để kinh nghiệm và ghi nhớ nó là ngôn từ đã qua. Mà ngôn từ thì không bao giờ là cái hiện thực. Vào lúc đó – không thuộc về thời gian – cái tối hậu là cái tức thời, nhưng cái tối hậu đó không có biểu tượng; nó không thuộc về con người, mà cũng không thuộc về thần thánh.

Thiền là tìm xem liệu có một phàm trù nào chưa hề bị nhiễm ô bởi những gì đã biết.

Thiền là sự nở hoa của hiểu. Hiểu không ở trong giới hạn của thời gian; thời gian chẳng bao giờ đưa đến hiểu. Hiểu không phải là một tiến trình tiệm tiến được gom góp từng chút, một cách cẩn thận và kiên nhẫn.

Hiểu hoặc là bây giờ hoặc không bao giờ; nó là tia chớp phá hoại, mà không phải chuyện thuần hóa; chính sự đập phá tan tành này mà người ta sợ hãi và tránh né nó, một cách hữu thức hay vô thức.

Hiểu có thể thay đổi cuộc sống, cách suy nghĩ và hành động của một người; điều đó có thể thích thú hay không, nhưng hiểu là một mối nguy hiểm cho mọi quan hệ. Nếu không hiểu, đau khổ sẽ còn tiếp diễn. Đau khổ chỉ có thể chấm dứt qua sự biết rõ chính mình, sự biết rõ mọi ý nghĩ và cảm thọ, từng hành hoạt của ý thức và của những gì bị che lấp.

Thiền là hiểu rõ ý thức, cả phần che khuất cũng như phần hiển lộ, và cả sự vận hành bên ngoài mọi ý nghĩ và cảm thọ.

Chưa bao giờ trời đẹp như buổi sáng hôm đó. Mặt trời vừa ló dạng và ở giữa cây khuynh diệp và cây thông. Ánh dương loang loáng trên mặt nước màu hoàng kim chói lọi – thứ ánh sáng chỉ có ở những vùng giữa núi và biển. Buổi bình minh trong vắt, lặng gió, tràn ngập thứ ánh sáng lạ lùng đó khiến một người không những thấy rõ bằng mắt mà còn bằng trái tim. Và khi bạn thấy nó, trời thật gần với đất, và bạn biến mất trong cái đẹp tuyệt vời.

Bạn biết đấy, đừng bao giờ thiền ở nơi công cộng, hay với một người khác, hoặc với một nhóm người, mà nên thiền trong cô tịch, trong sự yên lặng của ban đêm hay lúc sáng sớm tĩnh mịch. Khi bạn thiền trong cô tịch thì phải cô tịch. Bạn phải tuyệt đối một mình, không theo một pháp môn, một phương cách, tụng niệm một số chữ, theo đuổi một niệm tưởng, hoặc hình thành một ý nghĩ theo sự ưa thích của bạn.

Cô tịch xuất hiện khi tâm không còn ý nghĩ. Bao giờ còn ảnh hưởng của sự ưa thích hay của những gì mà tâm theo đuổi, dù thuộc về tương lai hay quá khứ thì không có cô tịch. Cô tịch chỉ đến trong cái vô biên của hiện tại. Và rồi trong sự bí mật của im lặng, trong đó mọi hình thức truyền đạt đếu chấm dứt, trong đó không có người quan sát với những lo âu, ham muốn ngu ngốc và những vấn đề của hắn; chỉ khi đó, trong sự cô tịch đó, thiền trở thành một cái gì không thể diễn tả bằng ngôn từ. Lúc đó thiền là sự vận hành vĩnh cửu.

Tôi không biết có bao giờ bạn thiền, có bao giờ bạn chỉ có một mình, một mình bạn, lìa xa tất cả, lìa xa mọi người, lìa xa mọi ý nghĩ và mọi theo đuổi, có bao giờ bạn hoàn toàn một mình, không phải cô lập, không phải thu mình vào một giấc mơ hay cảnh tượng hoang đường, nhưng biền biệt lìa xa, như thể trong bạn không còn gì có thể nhận biết, không cón gì có thể đạt đến bằng ý nghĩ hay cảm xúc; lìa xa đến nỗi trong sự hoàn toàn cô tịch này im lặng trở thành đóa hoa duy nhất, ánh sáng duy nhất và tính cách phi thời không thể đo lường bằng ý nghĩ. Chỉ trong thiền như thế tình yêu mới hiện hữu. Đừng bận tâm diễn tả nó vì nó tự diễn tả. Đừng sử dụng nó. Đừng tìm cách biến nó thành hành động thì trong hành động đó không có hối tiếc, không có mâu thuẫn và không có nỗi khốn khổ và trần lao của kiếp người.

Vậy hãy thiền một mình. Hãy đi lạc. Và đừng tìm cách nhớ mình đã ở đâu. Nếu tìm cách nhớ lại thì thiền là một cái gì đã chết. Nếu cố bám víu vào ký ức về nó thì bạn sẽ không còn một mình. Vậy hãy thiền trong sự cô tịch vô cùng đó, trong cái tuyệt mỹ của tình yêu đó, trong sự trong trắng đó, và trong cái mới – lúc đó là hạnh phúc bất diệt.

Bầu trời xanh thẫm, màu xanh thẫm xuất hiện sau cơn mưa, những cơn mưa cuối cùng đã đến sau những tháng hạn. Sau cơn mưa, bầu trời sạch trong, núi đồi hớn hở và đất thật tĩnh lặng. Mỗi chiếc lá đều nhận hưởng ánh sáng mặt trời, và cảm xúc của đất rất cận kề với bạn. Vậy hãy thiền ngay tận nơi thầm kín bí mật của trái tim và tâm thức, nơi bạn chưa đến bao giờ.

Thiền không phải là phương tiện để đạt cứu cánh; không có cứu cánh, không có sự đến; thiền là sự vận hành trong thời gian và ngoài thời gian.

Mọi pháp môn, mọi phương cách đều trói buộc ý nghĩ vào thời gian, nhưng sự biết rõ – mà không chọn lựa – từng ý nghĩ, từng cảm thọ, hiểu rõ nguyên do, cơ cấu của chúng, và cứ để chúng nở hoa là sự khởi đầu của thiền.

Trong khi ý nghĩ và cảm thọ rộ lên và chấm dứt thì thiền là sự vận hành siêu vượt thời gian. Trong sự vận hành này là cực lạc; trong sự hoàn toàn rỗng rang là tình yêu, và cùng với tình yêu là sự hủy diệt và sáng tạo.

Thiền là ánh sáng nội tâm soi sáng con đường cho hành động; nếu không có ánh sáng đó thì không có tình yêu.

Chẳng bao giờ thiền là cầu nguyện. Cầu nguyện, van xin phát sinh từ lòng tự thương xót. Bạn cầu nguyện khi gặp cảnh cơ cầu, đau khổ; nhưng khi có hạnh phúc, an lạc thì không có sự van xin. Lòng tự xót thương này, được ghi khắc sâu đậm trong con người, là nguồn gốc của sự phân chia.

Cái tách biệt, hay nghĩ chính nó là tách biệt – luôn luôn tìm cách đồng hóa nó với một cái gì đó không tách biệt – chỉ đem lại thêm phân chia và đau đớn. Từ sự rối ren này, con người kêu trời, réo chồng, hay thần thánh của tâm. Tiếng kêu này có thể tìm được sự đáp ứng, nhưng sự đáp ứng chỉ là tiếng vọng của lòng tự thương xót trong sự tách biệt của nó.

La85p đi lập lại một số chữ, hay cầu nguyện chỉ là tự kỷ ám thị, tự khép kín và mang tính phá hoại. Sự cô lập của ý nghĩ luôn luôn ở trong phạm vi của những gì đã biết, và câu hỏi cho sự cầu nguyện chỉ là sự đáp ứng của những gì đã biết.

Thiền lìa xa tất cả những thứ như thế. Trong cảnh giới này ý nghĩ không thể xâm nhập; không có sự phân biệt và do đó không có đặc điểm để nhận dạng. Thiền là bỏ ngỏ, bí mật không có chỗ dung thân. Mọi thứ đều phơi bày, sáng tỏ; lúc đó là cái đẹp của tình yêu

Đặc tính của thiền vào sáng hôm nay là vô, hoàn toàn trống vắng thời gian và không gian. Đây là thực tế, không phải một ý tưởng hay nghịch lý của những suy diễn đối nghịch. Một người có thể phát hiện sự trống rỗng lạ lùng này khi gốc rễ của mọi vấn đề tan biến.

Gốc rễ đó là ý nghĩ; ý nghĩ phân chia và thủ chấp. Trong thiền, tâm thực sự trở nên trống vắng quá khứ, mặc dù nó vẫn có thể dùng quá khứ như ý nghĩ. Trạng thái này diễn ra suốt ngày; ban đêm giấc ngủ hoàn toàn không có ngày hôm qua và do đó tâm đạt đến cái vô thời.

Thiền không phải chỉ là kiểm soát thân và ý, mà cũng không phải cách hít vào và thở ra. Thân phải tĩnh lặng, khỏe mạnh và không căng thẳng; độ nhạy của cảm xúc phải sắc bén và bền bỉ; và tâm với tất cả những lải nhải, rối loạn và mò mẫm tìm tòi – phải chấm dứt. Cơ thể không phải là cái mà một người cần bắt đầu trước mà đúng ra tâm với những ý kiến, tiên kiến và tư lợi là những thứ cần để ý. Khi tâm lành mạnh, đầy sinh khí và sung mãn thì cảm xúc sẽ nâng cao và vô cùng bén nhạy. Lúc đó thân, với trí tuệ tự nhiên sẵn có, chưa hề bị thói quen và sở thích làm cho hư hỏng, sẽ thực hiện các chức năng mà nó phải làm.

Như thế một người phải bắt đầu với tâm chứ không phải với thân; tâm có nghĩa là ý nghĩ và những thể hiện đa dạng của nó. Thuần tập trung chỉ làm cho ý nghĩ thu hẹp, giới hạn và mong manh; sự tập trung sẽ đến một cách tự nhiên nếu ta biết rõ mọi cung cách của ý nghĩ. Sự tỉnh thức không đến từ môt người tư duy lựa chọn và loại trừ, bám víu và khước từ. Sự tỉnh thức này không lựa chọn, và biết rõ cả bên ngoài lẫn bên trong; nó là dung thông giữa trong và ngoài, do đó mọi phân chia giữa ngoài và trong không còn nữa.

Ý nghĩ tiêu diệt cảm xúc, mà cảm xúc là tình yêu. Ý nghĩ chỉ có thể cống hiến lạc thú, và trong sự theo đuổi lạc thú thì tình yêu bị gạt ra rìa. Thú ăn nhậu tồn tại ý nghĩ, nếu chỉ kiềm chế hay đè nén sư thích thú mà ý nghĩ đem lại này thì vô nghĩa; làm như vậy chỉ gây ra đủ mọi hình thức xung đột và cưỡng bách.

Ý nghĩ, có nghĩa là vật chất, không thể tìm kiếm cái gì siêu vượt thời gian, vì ý nghĩ là ký ức, và kinh nghiệm trong ký ức đó thì khô chết như lá thu năm rồi.

Chú ý xuất hiện từ sự biết rõ về tất cả những thứ đo, chú ý không phải là sản phẩm của vô ý. Chính vô ý sai sử những thói quen ưa thích khoái lạc củ thân xác và làm suy giảm cường độ của cảm xúc. Không thể chuyển vô ý thành chú ý. Biết được vô ý là chú ý.
Thấy được diễn biến phúc tạp này là thiền, và chỉ từ đó trật tự hình thành trong sự hỗn loạn này. Trật tự này cũng tuyệt đối như trật tự trong toán học, và từ đó khởi sinh hành động, hành động tức thời. Trật tự không phải là sắp đặt, thiết kế và làm cho cân xứng; những thứ này mãi về sau mới đến. Trật tự xuất phát từ cái tâm không bừa bộn với những gì được ý nghĩ tạo ra. Khi ý nghĩ im lặng là có sự rỗng rang, có nghĩa là trật tự.

Dòng sông thật kỳ vĩ, rộng, sâu, với không biết bao nhiêu thành phố hai bên bờ; giòng sông tự do một cách phóng túng, nhưng chưa bao giờ từ bỏ chính nó. Tất cả sự sống là ở hai bên bờ, những cánh đồng xanh, những khu rừng, những xóm nhà hiu quạnh, cái chết, tình yêu và sự tàn phá; có những cây câu dài và rộng bắc ngang giòng sông trông thật thanh nhã và thường được sử dụng. Có những giòng suối và những con sông khác đổ vào nó nhưng nó vẫn là mẹ của tất cả những giòng sông, nhỏ cũng như lớn. Giòng sông luôn luôn đầy nước, luôn luôn thanh tẩy tự thân, và thật là điều may mắn được nhìn ngắm giòng sông vào một buổi chiều với những đám mây sắc thẫm và màu nước ánh vàng của giòng sông. Giòng nước nhỏ đầu nguồn ở tận đằng xa – giữa những tảng đá khổng lồ, trông có vẻ như quá cô đọng để tạo ra giòng sông kỳ vĩ này – là khởi nguồn của sự sống, và sự chấm dứt của nó vượt ra khỏi hai bờ và biển cả.

Thiền cũng giống như giòng sông đó, có khác chăng là thiền vô thủy và vô chung; thiền đã khởi đầu và kết thúc của thiền là sự khởi đầu của nó. Thiền không có nguyên nhân và động thái của thiền chính là sự tân tạo của chính nó. Thiền luôn luôn mới, thiền không bao giờ góp nhặt để trở thành già nua; thiền không hề bị nhiễm ô vì không bám rễ vào thời gian. Thiền thì tốt, nhưng đừng gò ép, và cũng đừng cố gắng; hãy bắt đầu với một giòng chảy nhỏ rồi lưu chuyển vượt thời gian và không gian, nơi ý nghĩ và cảm thọ không thể xâm nhập, nơi kinh nghiệm là không.

Thiền là hoàn toàn giải tỏa năng lượng.

Trong khoảng không gian mà ý nghĩ tạo ra quanh nó không hề có tình yêu. Khoảng không gian này phân cách con người với con người, và trong đó tất cả những gì đang trở thành, những giành giật của đời sống, nỗi thống khổ và lo sợ. Thiền là chấm dứt khoảng không gian này, tức là kết liễu cái “tôi”. Lúc đó quan hệ sẽ có một ý nghĩa hoàn toàn khác, vì trong không gian không do ý nghĩ tạo thành, người khác [cái khác] không tồn tại vì bạn không tồn tại.

Như thế thiền không phải là sự theo đuổi một hình ảnh, dù được thiêng liêng hóa đến đâu bởi truyền thống. Đúng ra thiền là không gian vô biên, nơi ý nghĩ không thể nào xâm nhập. Đối với chúng ta – khoảng không gian hạn hẹp được ý nghĩ tạo ra quanh nó, tức cái “tôi” – quan trọng hơn tất cả, vì đó là tất cả những gì mà tâm biết và đồng hóa chính nó với những hiện hữu trong đó. Sự lo sợ không còn hiện hữu khời sinh trong khoảng không gian này. Nhưng nếu hiểu được điều này trong thiền thì tâm nhập vào một chiều kích, trong đó hành vi là vô vi.

Chúng ta không biết tình yêu là gì, vì trong khoảng không gian được ý nghĩ tạo ra quanh nó thành cái “tôi”, tình yêu là sự xung đột giữa cái “tôi” và cái “không phải tôi”. Sự xung đột này, sự tra tấn này, không phải là tình yêu.

Ý nghĩ chính là sự phủ nhận tình yêu, nó không thể đi vào cõi không gian trong đó không có cái “tôi”. Trong không gian đó có cái phước báu mà con người vẫn theo đuổi nhưng không bao giờ tìm thấy. Con người tìm kiếm nó trong nội vi hữu hạn của ý nghĩ, và chính ý nghĩ giết chết sự hỷ lạc của phước bàu này.

Đức tin, cũng như lý tưởng, chẳng bao giờ cấn thiết. Cả hai làm tiêu hao sức lực cần cho công cuộc khám phá thực tế, tức cái “đang là”. Đức tin, cũng như lý tưởng là những hình thức trốn thực tế, và trong sự trốn chạy không hề có sự chấm dứt đau khổ. Chấm dứt đau khổ là hiểu rõ thực tế tù khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.

Không một pháp môn hay phương cách nào, chỉ có sự thấy biết thực tế mà không lựa chọn mới đem lại cái hiểu. Hành thiền theo một pháp môn là trốn tránh thực tế về cái bạn là; điều quan trọng là hiểu rõ chính mình, và sự thay đổi thường xuyên của những sự kiện thực tế về mình, thay vì thiền để tìm kiếm thần linh, hình ảnh, cảm giác lạ và những hình thức giải trí khác.

Thiền vào giờ đó thì tự do và cũng giống như nhập vào một thế giới bất khả tri của cái đẹp và sự tĩnh lặng; đó là một thế giới không có hình ảnh, biểu tượng hay ngôn từ, và cũng không có những gợn sóng của quá khứ. Tình yêu là sự chết đi trong từng khoảnh khắc và mỗi cái chết là sự khởi đầu mới của tình yêu.

Tình yêu thì không bao giờ ràng buộc vì tình yêu không có gốc rễ; tình yêu bừng nở mà không có nguyên nhân, và là ngọn lửa thiêu hủy mọi biên giới, những hàng rào được dựng lên một cách chắc chắn của ý thức. Tình yêu là cái đẹp siêu vượt ý nghĩ và cảm thọ, nó không thể được diễn tả trên khung vải, bằng ngôn từ, hay tạc ghi trên đá. Thiền là an lạc và cùng đến với an lạc là phước báu.

Thiền là sự nở rộ của tình yêu.

Trong thiền cần tìm xem liệu kiến thức có thể chấm dứt và do đó thoát khỏi những gì đã biết.