Như cuộc sống hiện giờ có ba việc
ăn, uống, thở, trong đó chúng ta lo việc nào nhiều nhất? Thường người ta lo ăn nhiều
nhất. Tối ngày chạy lo ăn, nhưng thật ra nếu nhịn ăn mấy ngày có chết không?
Không chết. Kế đó là uống, nhịn uống hai ba ngày mới chết. Đến thở, nhịn bao
lâu chết? Trong tích tắc, thở ra mà không hít vô là chết. Vậy mà người ta lại
quan trọng ăn với uống, còn thở ra sao thì không biết. Rõ ràng việc tối quan
trọng lại lơ là, còn việc không quan trọng thì dồn hết tâm lực vào đó. Như vậy
mới thấy cái lầm lẫn của chúng ta thật đáng thương.
Bước qua phần thứ hai, thân và
tâm tức thể xác và tinh thần, cái nào quan trọng hơn? Chúng ta thường lo cho
thể xác hay tinh thần? Thể xác lo cho sạch đẹp sung mãn, còn tinh thần thì
không nghĩ tới. Nhìn chung con người chỉ nặng về thể xác mà xem nhẹ phần tinh
thần, trong khi tinh thần điều khiển thể xác. Ví dụ từ trong nhà đi ra đường,
ta khởi nghĩ trước rồi mới đi. Làm việc gì cũng vậy, khởi nghĩ trước rồi mới
làm. Rõ ràng tinh thần chỉ huy mà chúng ta lại không quan tâm, chỉ quan tâm thể
xác.
Nhưng thử hỏi chúng ta lo cho thể
xác được sung mãn, mà nó còn mãi không? Lo cho mấy nó cũng bại hoại. Lo nào nhà
cửa, tiền bạc, cơm ăn áo mặc… nhưng khi nhắm mắt tất cả những thứ đó còn hay
mất? Lo để ngày mai sẽ mất thì lo làm gì? Vậy mà chúng ta cứ lo, lo ngày lo
đêm, lo hết sức là lo. Cái giữ không được mà dồn hết cho nó, còn cái chủ thúc
đẩy chỉ huy lại không để ý, mặc tình nó ra sao thì ra. Như vậy chúng ta sáng
suốt không? Đó là vấn đề chúng ta cần phải xét lại để khỏi lầm lẫn.
Nếu nói tâm hồn hay tinh thần là
cái chỉ huy, sắp đặt cho cuộc sống, thì chúng ta phải lo cho nó tốt đẹp, cao
quí mới phải, còn thân tạm bợ này lo xoàng xoàng cũng được. Thế mà ta làm ngược
lại. Đó là điều rất sai lầm của đa số người thế gian.
Bây giờ nói tu là tu thế nào?
Nhiều người bảo ăn chay, lạy Phật nhiều là tu. Ăn chay, lạy Phật cũng thuộc về
phần thể xác, còn bộ chỉ huy thì không lo. Vì vậy tu cũng có nhiều cách. Tu
bằng hình thức tạo phước tạo duyên, hoặc tu bằng cách lọc bỏ các vọng tưởng cho
tâm được trong sáng thanh tịnh. Trong hai cách tu trên, cách tu sau mới là quan
trọng. Bởi vì tâm là vị chỉ huy, nếu chỉ huy tốt thì thân miệng làm các việc
tốt, cuộc sống theo đó quí đẹp. Còn tu về phần vật chất thì có phước, nhưng tâm
còn phiền não thì không giải quyết được cội gốc vô minh sinh tử. Đó là điều
quan trọng người tu chúng ta cần phải biết.
Muốn xây dựng, muốn gạn lọc cho
tinh thần được trong sáng, tốt đẹp thì phải quay lại xem xét mình. Tất cả chúng
ta hiện giờ có ai không biết tham lam, nóng giận, si mê là xấu đâu. Biết thì
biết mà không nỡ bỏ, cho nên Phật quở chúng sinh thật mê muội, rất đáng thương.
Bình thường không việc gì thì thấy rất hiền lành, nhưng gặp việc trái ý liền
nổi sân đùng đùng. Nóng giận như vậy đã là sai rồi mà còn bảo vệ cho cái giận
của mình, tại thế này, tại thế nọ nên tôi mới giận. Đã bảo vệ nó, thì làm sao
bỏ được. Ít người nào giận mà nói lỗi tại tôi, lý đáng không nên như vậy, thật
là xấu hổ… Không dám nhận lỗi là ngầm chấp nhận mình đúng người sai, nên không
bao giờ chịu sửa đổi tật nóng giận của mình.
Con người thật là mâu thuẫn. Đến
với Phật hít hà lạy lục, mong cho con được sáng suốt, thanh tịnh… mà những thói
xấu không chịu bỏ. Đó là điều rất thực tế, Phật tử vẫn còn lúng túng. Tôi nói
nóng giận là cái nổi nhất, còn tham lam, ngu si ngầm bên trong khó bỏ hơn nữa.
Người tham lam có một triệu muốn hai triệu, có hai triệu muốn ba triệu, không
dừng lại bao giờ. Có ít muốn nhiều, muốn hoài cũng không bao giờ thấy đủ.
Chúng ta tưởng tham không dính
dáng gì sân, nhưng thật tình tham là cha đẻ của sân hận. Ví dụ ra chợ thấy món
hàng vừa ý mình muốn mua. Nghe người bán nói năm trăm, mình trả ba trăm, người
ta chưa chịu bán. Lúc đó có người trả bốn trăm, người ta bán. Vậy là mình nổi
tức lên, rõ ràng giận từ tham mà ra. Đó là những cái tham nhỏ, chưa phải trong
tầm tay của mình, còn những cái tham trong tầm tay của mình. Ta quí ta thích
nó, khi mất mình sẽ sân giận tới đâu nữa.
Thí dụ mình vừa sắm được cái lục
bình vừa ý, bất thần đứa cháu sẩy tay làm rớt bể. Lúc đó cơn nóng đùng đùng nổi
lên, mình la ó om sòm. Cái nóng giận đó do tham của quí, muốn giữ mà mất nên
mình mới sân hận. Như vậy có thể nói tất cả sự nóng giận đều bắt nguồn từ lòng
tham. Như ta muốn được khen, được danh thơm tiếng tốt mà bị người chê thì nổi
nóng liền. Tham danh, tham lợi, tham tài, tham sắc, tham cái nào mà không được
cũng dẫn đến sân hận cả.
Song lòng tham gốc từ si mê mà
ra. Như mạng sống của chúng ta qua một ngày là mất một phần. Cuộc đời vô
thường, ngày nay sống chưa chắc ngày mai đã còn. Người thấy được lý vô thường
là thấy được lẽ thật. Do vô thường, thở ra không hít lại là chết, mạng sống này
đâu có bảo đảm dài lâu. Nhưng nghe ai nói ngắn, thì mình buồn, mình cự lại. Còn
nghe nói dài, sống đến trăm tuổi là vui liền, như vậy không phải si mê là
gì?
Chúng ta thường sống với những ảo
tưởng, mơ ước không có lẽ thật, đó là gốc từ si mê. Nếu ai nói mạng mình yểu ta
liền xét biết, cuộc sống trong hơi thở không yểu sao được. Nói vậy, biết vậy
thì cười thôi, không giận hờn ai. Vì không có trí tuệ, ta sống trong ảo tưởng,
không đúng lẽ thật, nên sinh ra tham lam sân hận, đủ thứ phiền não che lấp tâm
chân thật.
Từ si mê cho rằng đời sống cả
trăm năm, rồi lo tạo dựng sự nghiệp không có ngày cùng, đến tắt thở cũng chưa
rồi. Vì vậy mà cả một đời người mấy chục năm, chúng ta cứ lao vào hình thức vật
chất, không nghĩ tới tâm tư của mình trong sáng hay tối tăm. Chúng ta không
biết trau dồi tâm tánh của chính mình chút nào hết, mà lại đuổi theo những cái
tạm bợ bên ngoài.
Đời này tạo lập, xây dựng nếu lỡ
chết đi thì tiếc nuối không bỏ được, nên rồi phải trở lại nữa. Thế nên Phật nói
si mê là gốc của luân hồi, chúng sinh trở đi trở lại không giải thoát được, gốc
từ si mê mà ra. Từ si mê chúng ta có đủ thứ sai lầm. Si mê về sự sống, si mê
danh vọng, si mê sắc đẹp… Bởi nghĩ mình đẹp nên ai chê xấu thì giận, nghĩ mình
khôn nên ai chê ngu thì giận. Người ta cứ tưởng tượng về mình, chớ sự thật chắc
gì mình đẹp, chắc gì mình tốt, chắc gì mình khôn. Nhưng nghe khen thì vui, nghe
chê thì không chịu. Như vậy có phải si mê không? Con người chịu hết khổ này
tiếp nối khổ kia, không thoát được là vì thế.
Bây giờ nếu chúng ta biết rõ mạng
sống vô thường, thân này không thật. Ta không là gì trong xã hội này cả thì có
gì để tự hào, ngạo mạn. Nghĩ mình là rơm là rác, tự nhiên ta sẽ buông bỏ được
những thứ tạm bợ quanh mình, sửa đổi những thói hư tật xấu thành ra tốt đẹp.
Biết thân này không có giá trị chân thật thì sẽ không còn đắm luyến nó nữa, ta
mới vươn lên tìm cái chân thật. Đó là biết lo cái đáng lo, bỏ cái đáng bỏ.
Chúng ta kiểm lại ba điều: Một là
mạng sống trong hơi thở. Hai là thân này hư dối tạm bợ, không có gì quan trọng.
Ba là ta vẫn còn nhiều khiếm khuyết cần phải tu sửa. Nhớ như vậy, chúng ta sẽ
tập trung vào việc tu dễ dàng, gạn lọc tâm trong sạch, thanh tịnh. Tịnh hóa
được thân tâm rồi thì các thứ hình thức vật chất trong cuộc sống này không thể
lôi kéo chúng ta được nữa. Đó là một lẽ thật.
Thật vậy, khi nhìn lại thấy thân
này là đãy da hôi thối, giống như cái bô đậy kỹ, có ai đi ngang bịt mũi, mình
sẽ cười nói tránh đường cho cái bô đi. Như vậy đâu có khổ. Rõ ràng lâu nay
chúng ta sống trong mê lầm. Bây giờ phải gan lên, phải thấy được lẽ thật thì
đời sống của mình mới an lành tự tại. Lúc nào cũng nhớ từ si mê sinh ra tham
lam, từ tham lam sinh ra nóng giận. Ba thứ này là phiền não rất độc cần dẹp bỏ,
chớ không thể nuôi dưỡng được.
Nhưng chúng ta có bệnh biết sai
mà không can đảm sửa liền, cứ hẹn từ từ. Như vậy đòi tu mau ngộ đạo, mau thành
Phật sao được! Bởi vì tu là phải dùng trí tuệ thấy đúng như thật, cái gì ảo
tưởng phải chừa bỏ, như vậy mới hết gốc mê, hết mê mới hết khổ. Chúng ta không
gan, không dám nhìn thẳng, không dám bỏ thì không bao giờ được an lạc giải
thoát.
Khổ đau không phải từ đâu đem
đến, mà tại chúng ta không sáng suốt, không có trí tuệ. Có người nghe Phật dạy
đời là khổ, thân là vô thường, v.v… cho rằng Phật bi quan. Nhưng không ngờ thấy
được lẽ thật đó sẽ cởi mở biết bao nhiêu việc, không còn đeo đẳng đau khổ nữa.
Do không biết không nhận như vậy nên người thế gian đau khổ vô cùng, hết đời
này tới đời khác không lúc nào hết buồn hết lo.
Chúng ta thử nghiệm lại trên thế
gian này, từ người giàu cho tới người nghèo, có ai không khổ đâu, có ai sống
toàn là vui đâu. Mỗi người khổ mỗi cách, có người khổ vì thiếu thốn đói rét, có
người khổ vì côi quả, có người khổ vì gia đình không hạnh phúc… ai cũng khổ,
không có ai vui trọn vẹn. Vậy mà Phật nói cuộc đời là khổ thì bảo đạo Phật bi
quan. Rõ ràng con người luôn chạy trốn sự thật.
Chúng ta phải dám nhìn vào sự
thật mới có thể can đảm tiến lên. Biết cuộc đời vô thường để ngày nào, giờ nào
mình còn sống thì cố tu tập, dẹp những thói xấu. Chỉ nhớ mạng sống trong hơi
thở là hết tham ngay. Nhớ thân này nhơ nhớp thì bớt ngã mạn, tự nhiên ta trở về
cuộc sống chân thật của mình. Đó là người có trí tuệ sáng suốt.
Tu là rèn luyện trí tuệ cho được
sáng suốt, được tốt đẹp, đó là điều tiên quyết. Thân này dầu sửa sang, lo lắng
mấy nó cũng bại hoại, cũng chỉ là tấm thân hư thối thôi. Tất cả cái được đó đều
là được để mất, chớ không phải được để còn mãi. Vậy mà chúng ta cứ cắm đầu lo
thôi là lo, còn việc tẩy rửa gạn lọc cho tâm trong sáng, tốt đẹp thì ít quan
tâm tới. Phần nhiều Phật tử đi chùa học Phật, chỉ muốn tu để đời sau sung sướng
hơn, phước đức hơn, đẹp đẽ hơn, chớ không muốn thấy đúng lẽ thật, không muốn
dứt si mê, giác ngộ giải thoát.
Trong nhà Thiền tu là gạn lọc nội
tâm, giống như một khạp nước đục, chúng ta lóng xuống cho nó trong. Lóng lặng
rồi thì nước trong, nhưng cặn bã vẫn còn dưới đáy khạp, nếu quậy lên thì chúng
sẽ ngầu đục trở lại. Bây giờ muốn nó hoàn toàn trong, không có cặn cáu nữa thì
phải lọc qua một khạp khác. Cũng vậy, tham sân si là cặn cáu, nó làm cho tâm
trí mình mờ tối, bây giờ chúng ta phải lọc, phải gạn cho nó lắng xuống trước.
Lắng xuống rồi phải lọc bỏ nó đi, lúc đó tâm mình mới trong sáng. Tâm hồn trong
sáng tức không còn đau khổ nữa, còn tâm hồn tối tăm thì đau khổ không có ngày
dứt được. Đó là điều hết sức thiết yếu.
Chúng ta có hai thứ tâm, tâm sinh
diệt tùy duyên và tâm thanh tịnh hằng sáng không mất. Khi chúng ta nghĩ xấu,
nghĩ ác thì tâm đó luôn thay đổi hay nguyên vẹn mãi như vậy? Thí dụ có người
nói trái ý, mình giận ghét họ, đó là tâm xấu. Nhưng thời gian sau họ làm gì vừa
ý, mình liền vui vẻ, thương mến họ. Đó là tâm sinh diệt tùy duyên. Duyên thuận
thì nó tốt, nghịch thì nó xấu chớ không cố định. Đã là sinh diệt tùy duyên thì
không phải thật mình. Như vậy không ai cả ngày giận hoài, cũng không ai cả ngày
ghét hoài. Thương, ghét, buồn, giận đều tùy duyên lộn qua đảo lại, không cố
định. Vừa giận đó rồi thương, vừa ghét đó rồi mến, đổi thay luôn.
Phật dạy phàm những gì do duyên
hợp đều hư giả, vậy mà chúng ta chỉ sống với cái giả, bỏ quên cái thật. Cả ngày
đem hết sức lực để lo lắng, gìn giữ cái thân tạm bợ này. Đến tâm tức tinh thần,
chúng ta giữ phần hơn thua, phải quấy, tốt xấu, được mất cho đó là tâm mình.
Tâm tôi nghĩ phải, tâm tôi nghĩ quấy, tâm tôi vui buồn, thương ghét… có rồi
mất, không thường còn. Tâm không thật luôn sinh diệt như vậy mà bám vào đó chấp
là mình, thành ra mất mình luôn. Có đáng thương không?
Phật bảo chúng sinh do ba nghiệp
mà đi trong sinh tử luân hồi. Ba nghiệp là thân, miệng và ý. Khi ý nghĩ xấu thì
miệng nói xấu, thân làm xấu nên nghiệp dẫn đi trong ba đường ác địa ngục, ngạ
quỉ, súc sinh. Nếu ý nghĩ tốt, thì miệng nói phải, thân làm phải nên nghiệp dẫn
đi trong ba đường lành trời, người, a-tu-la.
Như vậy chánh nhân tạo nghiệp là
ý, tức những thứ buồn thương giận ghét của chúng ta. Tâm đó là chủ tạo nghiệp,
muốn tu giải thoát sinh tử mà bám vào nó thì không bao giờ giải thoát được. Chỉ
là phước báu hoặc tội nghiệp, dẫn đi trong đường lành hoặc đường dữ thôi.
Ban đầu, chúng ta tu thì tập bỏ
những thứ xấu ác, sau đó đến các thứ tốt thiện cũng phải bỏ luôn. Nhưng thường
không ai bỏ cái tốt cả, uổng lắm cho nên được sinh cõi lành, thành ra cũng
quanh quẩn ở sinh tử thôi. Chúng ta chưa tìm ra cái thật mình, thì chưa thể
được an vui vĩnh viễn. Cái thật đó Lục Tổ nói “Không nghĩ thiện, không nghĩ ác,
cái gì là Bản lai diện mục của Thượng tọa Minh?” Vậy khi tâm hằng tri, hằng
giác mà không có niệm thiện ác lôi cuốn, lúc đó mình đi đâu? Không tạo nghiệp là
giải thoát sinh tử, còn đi đâu nữa.
Chúng ta ai cũng sẵn có cái không
tạo nghiệp, không bị nghiệp dẫn mà không chịu nhận, cứ nhận cái tạo nghiệp, cái
sinh tử là mình rồi khỏa lấp cái mình thật. Bản lai diện mục tức là mặt thật
xưa nay của mình, nó bị khỏa lấp bởi niệm thiện, niệm ác. Chừng nào những niệm
đó lặng sạch thì mặt thật xưa nay hiện tiền. Vậy lúc niệm thiện ác chưa lặng
sạch thì mặt thật kia ở đâu?
Bình thường chúng ta thấy biết
tất cả mà không khởi niệm phân biệt, cái thấy biết đó không động. Nó luôn hiện
tiền nhưng mình vừa khởi phân biệt thì nó khuất đi, chớ không phải mất, không
phải thiếu vắng bao giờ. Chúng ta chạy theo niệm sinh diệt thì cái chân thật ẩn
khuất, khi nào dừng lặng các niệm sinh diệt thì nó hiện bày. Cho nên các Thiền
sư thường nói “Tại ông không nhận, chớ không phải không có”.
Có ai không thấy, không nghe,
không biết. Thấy, nghe, cảm giác biết hết nhưng ở giai đoạn đầu chưa khởi niệm
phân biệt tốt xấu, hơn thua thì cái biết chân thật không sinh diệt. Khi tâm
khởi niệm phân biệt là chuyển sang cái biết sinh diệt rồi. Thấy cứ thấy, nghe
cứ nghe, có người nào thiếu đâu, nhưng ai cũng than kiếm không ra Phật tánh. Sự
thật thì nó luôn hiện tiền ngay nơi chúng ta, đâu cần phải tìm kiếm ở đâu.
Khi chúng ta ngồi Thiền không có
hôn trầm, những niệm nghĩ tưởng lăng xăn lặng xuống, dấy lên ta thấy biết rõ
ràng tức là vẫn tỉnh vẫn biết như thường, cái biết đó nó không động không tịnh,
không sinh diệt như các niệm vọng tưởng. Đó là mình đã có sẵn cái không động,
không sinh diệt rồi. Chỉ cần ta không chạy theo cái động, thì trở về được với
cái không động, đó là giải thoát sinh tử. Vì cái động sinh diệt tạo nghiệp đi
trong sinh tử, còn cái không động, không sinh diệt thì không tạo nghiệp sinh
tử. Cho nên sống được với cái không động là giải thoát sinh tử, cần gì tìm kiếm
ở đâu xa. Trong nhà Thiền nói “Cỡi trâu đi tìm trâu”, “Cõng Phật mà đi tìm
Phật” là thế.
Vì vậy trong kinh Pháp Hoa, chàng
cùng tử say sưa được bạn tặng cho hòn ngọc quí bỏ trong túi áo, anh lo say lang
thang hoài nên quên mất mình có hòn ngọc. Đến khi được bạn chỉ thẳng mới nhớ
lại mình có hòn ngọc trong túi áo từ lâu. Đó là chỉ cho tất cả chúng ta có cái
chân thật quí báu mà không nhớ không nhận, cứ chạy theo cái tạm bợ cái giả dối
hoài.
Tôi nhắc lại chúng ta tu là dẹp
bớt những tâm niệm xấu ác, giữ những tâm niệm hiền lành tốt đẹp, đó là chặng
thứ nhất. Kế đến tất cả niệm sinh diệt dù tốt hay xấu cũng đều bỏ hết, đừng
luyến tiếc mà phải sống với cái chân thật không sinh không diệt, không hình
tướng của mình. Như vậy tu là làm một việc cao siêu phi thường, chớ không phải
tầm thường.
Chúng ta hiện giờ đang sống đang
tu, mà chỉ mong muốn những cái nho nhỏ, như đời sau có phước hơn đời này, giàu
sang sung sướng hơn đời này. Nhưng ta quên rằng dù được như vậy chắc gì đã hạnh
phúc, vì có thân là có khổ. Có ai khỏi bệnh, khỏi chết đâu. Bệnh chết là khổ
hay vui? Cái án đó đã sẵn cho mọi người. Ai rồi cũng phải đi tới già, tới bệnh,
tới chết. Đã có án tử hình thì cuộc sống là vui hay là khổ? Vậy mà chúng ta cứ
buông trôi, ngày mai ra sao mặc nó, bây giờ cứ cười cứ vui. Người không thấy xa
biết rõ, là người không sáng suốt, không có trí tuệ.
Người tu có hai trường hợp, thứ
nhất nhớ cuộc đời vô thường rồi buồn rầu chán nản không muốn làm gì. Như vậy
chưa phải khéo tu. Thứ hai cũng biết vô thường nhưng vui vẻ, vì biết đó là luật
chung của mọi người, không ai tránh được. Muốn tránh phải tự tìm một lối đi
khác, chớ không thể ngồi buồn mà tránh được. Đây là người khéo tu. Cho nên
chúng ta học Phật, biết đời là khổ nhưng mình vẫn vui. Vì trong cái khổ sinh
diệt có cái chân thật không sinh diệt, luôn hằng hữu bên mình. Thế thì ta dại
gì sống với cái sinh diệt, bỏ mất cái không sinh diệt cho phải khổ. Vì vậy đạo
Phật không những không bi quan, mà còn lạc quan yêu đời nữa là khác.
Người biết tu thì biết sửa đổi
sai lầm, luôn tỉnh giác và đánh thức mọi người cùng tỉnh giác, như vậy cuộc
sống mới có giá trị. Nếu cả cuộc đời mấy chục năm, sống trong u tối thì thật vô
nghĩa. Đời này qua đời khác, cứ chồng chập như vậy thì khổ não biết bao nhiêu.
Lại, Phật bảo được thân người là khó, như rùa trăm năm mới gặp bọng cây giữa
biển khơi.
Tuy thân này hư tạm, nhưng nếu
chúng ta biết lợi dụng nó, để tu hành thì sẽ vượt thoát khỏi dòng sinh tử, sống
với Pháp thân chân thật, muôn đời không sinh diệt. Giống như rùa mù nương bọng
cây được vào bờ. Ngày nào sống là một ngày thức tỉnh, ngày nào sống là một ngày
an lạc. Khi không còn nghĩ chuyện tốt xấu, phải quấy ta sẽ thấy vui. Vui thế
nào? Tất cả niệm hơn thua phải quấy không khởi thì gương mặt mình lúc nào cũng
tươi sáng, đó là cái vui chân thật. Còn vui hỉ hạ là cái vui của thế gian,
không chân thật.
Nhưng người đời luôn tìm vui
trong cái hơn thua được mất. Ví dụ người ta tổ chức đá bóng, đội nào thắng mình
vỗ tay cười vui, trong khi đội thua rất đau khổ. Vui trong sự đau khổ của người
khác, thì cái vui đó không thật vui. Người thắng thì vui, người thua thì khổ.
Như vậy vui của thế gian chỉ là cái vui tương đối, vui khổ theo nhau, chớ không
hoàn toàn vui.
Chỉ khi tâm chúng ta dứt các niệm
phải quấy, hơn thua v.v… lặng lẽ thanh tịnh mới thật là vui. Nhưng có nhiều
người, nhất là tuổi học sinh sinh viên, nói tu cái gì cũng bỏ hết thành ra ngu
ngốc. Phải nhét vô đầu thật nhiều mới có kiến thức rộng, mới là người hiểu
biết. Thật ra không phải vậy, người tu bỏ những niệm lăng xăn tạp loạn, để tập
trung vào một việc thì sáng thêm chớ ngu sao được. Ví dụ khi học cứ một tâm
chuyên chú vào việc học, không nhớ nghĩ viển vông chuyện nọ chuyện kia, thì
càng học càng thông minh sáng suốt hơn, chớ ngu sao được. Khi làm việc cũng
vậy, buông hết chuyện tạp, tập trung vào công việc thì kết quả sẽ tốt hơn.
Thời nay, người ta muốn nhớ nhiều
quá thành ra quên hết. Bởi vì nhét đầy óc ách trong não, khiến nó mỏi mệt nên
nó không thể tiếp nhận được gì cả. Rồi rốt cuộc càng muốn nhớ thì càng quên.
Trong khi người càng buông lại càng nhớ, nhớ một cách tự nhiên trong sáng nên
mọi việc hiện ra rất rõ ràng phân minh.
Chúng ta thử nghiệm xem khi nào
đầu mình rối nuồi việc này việc kia, lúc đó mình cứ quên đầu quên đuôi. Khi ấy,
chỉ cần ngồi thiền một chút ta liền nhớ trở lại. Vì vậy nhiều người mới tập tu
thiền nói ở ngoài không nhớ gì hết, đến lúc ngồi thiền, lại nhớ đủ chuyện. Như
vậy có lỗi không? Tôi giải thích đó không phải lỗi, vì lúc ở ngoài việc này
việc kia khỏa lấp nên ta không nhớ, khi ngồi thiền tâm yên định, nó trồi lên
nên ta thấy đủ chuyện. Thấy thì thấy, biết nó không thật liền buông thì không
có lỗi gì cả, quan trọng là đừng chạy theo nó.
Như đức Phật khi ngồi thiền dưới
cội bồ-đề, chứng được Túc mạng minh, Ngài nhớ lại chuyện vô số kiếp về trước
như nhớ chuyện hôm qua. Khi buông bỏ hết, ta tưởng như quên nhưng trái lại nhớ
rõ hơn. Còn ráng nhớ rốt cuộc nhớ không bao nhiêu. Hiểu như vậy mới thấy tâm
mình là kho chứa, nên nhà Phật gọi là Tàng thức. Cái kho ấy chứa tất cả chủng
tử lành dữ của mình, nếu ta loại hết những lăng xăng tạp loạn thì kho Tàng thức
đó biến thành Như Lai tàng. Kho thức phân biệt mà sạch hết những niệm phân biệt
thì trở thành kho Như Lai, kho Phật chớ không phải hết trơn.
Vì vậy khi tu chúng ta buông bỏ
hết, nhưng đừng tưởng mất tất cả. Không phải vậy, ngồi yên định lại, muốn nhớ
thì nhớ rõ ràng, không muốn nhớ thì thôi. Đó là người đã làm chủ được mình và
các pháp, sống tùy duyên an vui tự tại, không bị các pháp nhiễu loạn. Nên những
người tu càng cao càng hay, thì càng ít chú ý tới mọi thứ, nhưng cần thiết thì
các ngài thấy biết rõ ràng, không nghi ngờ. Còn chúng ta những thứ cần biết thì
không biết, những thứ không cần biết lại biết. Vì vậy chúng ta khác các ngài.
Tóm lại, hôm nay tôi muốn nhắc
tất cả nhớ điều này: Việc gì đáng lo thì mình lo, việc gì không đáng lo thì
buông bỏ bớt. Người khéo tu lúc nào cũng nhớ quay lại mình, nhận ra và sống
được với Tâm chân thật, ngoài ra tất cả đều vô thường hư ảo, không cần chú tâm
làm gì.
Người tu không sợ ngu, chỉ sợ
không tu được thôi. Tu được tức là giác ngộ, mà đã giác ngộ tức là trí tuệ viên
mãn, nói gì là ngu với không ngu!
Thích Thanh Từ