Chữ Ma phát xuất từ chữ Mâra trong tiếng Phạn và có nghĩa là “quỷ sứ cám dỗ”, một thứ “quỷ tinh ranh” tượng trưng cho xu hướng tâm thần bấn loạn và lầm lẫn, cản trở con đường tu tập của một hành giả. Theo Phổ diệu kinh (Lalitavistara Sutra), kể lại cuộc đời của Đức Phật, thì ma từng dùng mọi xảo thuật quấy nhiễu và cản trở không cho Đức Thích Ca Mâu Ni đạt được Giác ngộ. Kinh kể rằng trong đêm trước khi Sa-môn Cồ-đàm thành Phật, có một đám ma nữ quyến rũ Ngài, và có cả một đoàn ma quân ném đá như mưa vào Ngài; tên cầm đầu nhất định bảo rằng không có gì chứng thực Ngài đã đạt được Giác ngộ. Đức Phật bèn dùng tay phải chạm xuống mặt đất khiến đại địa chấn động, chứng minh cho sự Giác ngộ đích thật của Ngài. Cả đoàn ma liền biến mất.
Nếu có ma quân… thì cũng phải có tên cầm đầu tức là Ma Vương. Ma Vương cũng là cách dịch khác của chữ Mâra. Ma vương là Vua của các loài Thiên ma, ngụ ở cảnh giới Tha hóa Tự tại Thiên (Paranirmitavasavartin), cảnh trời thứ sáu thuộc Dục giới, cõi thấp nhất trong tam giới. Ma vương, còn có tên là Thiên ma Ba-tuần, có phép thần thông, chuyên dùng ma thuật để phá rối, ngăn cản sự tu tập của những vị Bồ-tát.
Tựu trung thì kinh sách phân loại ma thành bốn thứ khác nhau gọi là Tứ ma, thế nhưng vì có vài khác biệt trong cách định nghĩa về ma giữa Thừa Kinh điển (Sutrayana) và Thừa Kim Cương (Vajrayana), vì thế nếu đem cộng lại Tứ ma của cả hai thừa thì sẽ có tám thứ ma tất cả và gọi chúng là Bát ma.
Tứ Ma của Thừa Kinh điển là:
1. Ma cấu hợp (Skandhamara): tượng trưng bởi ngũ uẩn, làm cơ sở cho khổ đau và cái chết mà ta phải gánh chịu trong cõi luân hồi. Con ma đó gọi là “con ma gánh chịu cái chết”, gọi là Ấm ma, Uẩn ma, hay Ngũ chúng ma.
2. Ma dục vọng (Klesamara): bao gồm mọi ham muốn, thèm khát, xui khiến ta phạm vào những hành động tiêu cực, tạo ra nghiệp xấu, đưa ta vào vòng khổ đau của cõi luân hồi. Đó là “con ma đưa đến cái chết”, gọi là Phiền não ma.
3. Ma thần chết (Mrtyumara): là sự hủy hoại, cứu cánh tất nhiên của sự sinh, hậu quả của bản chất cấu hợp của mọi hiện tượng, tức là quy luật vô thường. Con ma này có tên là “con ma vô thường”, gọi là Tử ma.
4. Ma con trời (Devaputramara): bao gồm những thứ ma khiến ta đãng trí, phân tâm, xúi dục ta bám víu vào ảo giác của những vật thể bên ngoài và trong tâm thức, cản trở sự tu học. Đó là “con ma bấn loạn”, chính là Tha hóa Tự tại Thiên tử ma, gọi tắt là Thiên ma, tay sai của Tha hóa Tự tại Thiên Vương.
Tứ ma của Thừa Kim Cương là:
1. Ma xiềng xích (tiếng Tây Tạng: thogs-bcas-kyi bdud): rất hung tợn và lộ liễu, gây ra phiền não, bệnh tật và các chướng ngại bên ngoài. Đấy là con ma của sự bám víu và ghét bỏ đối với những vật thể và hiện tượng chung quanh; khiến ta bị trói buộc vào những thứ ấy; cũng được gọi là Phiền não ma.
2. Ma thả lỏng (tiếng Tây Tạng: thogs-med-kyi bdud): là ba nọc độc chính và năm nọc độc phụ tượng trưng cho các thứ dục vọng chính yếu và thứ yếu, các tư tưởng hay tư duy bấn loạn chưa được khắc phục, chúng xâm chiếm tâm thức và gây ra khổ đau cho ta; cũng được gọi là Tâm ma.
3. Ma khánh hỷ (tiếng Tây Tạng: dga’-brod-kyi bdud): là con ma đội lốt hân hoan, vui thích, thỏa mãn với chính mình, xem ta hơn cả mọi người, xúi giục ta bám víu vào những “kết quả” và “kinh nghiệm” thiền định đã thực hiện được và cho đấy là cao siêu, rồi trở nên hãnh diện, không chịu cố gắng tu tập thêm; được gọi là Thiện-căn ma.
4. Ma kiêu căng (tiếng Tây Tạng: snyems-byed-kyi bdud): là con ma ngạo mạn, tự mãn, tự kiêu, tự đại. Đấy là bản chất căn bản của con ma mang tên là cái “ta”, cái “tôi”, cái “ngã”; được gọi là Tam-muội ma.
Ngoài ra, trong Hoa Nghiêm sớ sao, ma được phân ra làm mười thứ gọi là Thập ma; trong đó nhiều thứ đã được liệt kê trên đây, gồm 1. Uẩn ma; 2. Phiền não ma; 3. Tâm ma; 4. Tử ma; 5. Thiên ma; 6. Thiện căn ma; 7. Tam muội ma; và ba loại ma khác gồm: 8. Nghiệp ma, tức các nghiệp tiêu cực ngăn trở việc tu tập. 9. Thiện trí thức ma, tức là những kẻ thông hiểu được đạo lý, nhưng vì ích kỷ tham tiếc đạo lý ấy mà giữ riêng cho mình, chẳng chỉ dạy cho kẻ khác; và cuối cùng là 10. Bồ-đề Phác-trí ma, những kẻ tuy đã phát lộ được trí tuệ, nhưng vẫn còn chấp trước không thấy được chánh đạo.
Đã nói đến danh từ và định nghĩa thì cũng xin kể thêm:
Ma cảnh: khung cảnh ma quái, được tạo ra để phỉnh gạt và ngăn trở người tu hành.
Ma chướng: những chướng ngại ngăn chặn sự thăng tiến của trí tuệ.
Ma duyên: còn gọi là ác duyên, tức là các cơ duyên xui khiến đưa đến nghịch cảnh, bất lợi hay độc hại.
Ma đàn: là sự bố thí của ma, không phải là của người. Đó là sự bố thí của những kẻ mang lòng tà, lòng tham, cầu danh, cầu lợi mà bố thí, sợ oai lực của ma quỷ mà bố thí, muốn tránh tai nạn mà bố thí. Loại ma này nhan nhản chung quanh ta, rất dễ trông thấy, không cần đến “kính chiếu yêu”. Chữ Ma đàn nghịch nghĩa với chữ Phật đàn; Phật đàn là bố thí mà không biết là mình đã bố thí, không biết mình bố thí cái gì và bố thí cho ai, bố thí chỉ vì lòng từ bi vô biên mà thôi. Bố thí như thế còn gọi là Bố thí Ba-la-mật.
Ma đạo: đường đi của ma, chốn lui tới của ma, còn gọi là ma giới, tức cảnh giới của ma.
Ma lực: sức mạnh tiêu cực, kích động và xui khiến phạm vào những hành vi xấu hay hung ác.
Ma Phạm: (Mâra hay Brâma) tức là Ma Vương ở cõi Phạm Thiên, gọi tắt là Ma Phạm. Ma Phạm hay Phạm Vương hay Phạm Thiên Vương (Mahabrahma) là vị Chúa Tể của cõi Ta-bà, chiếm vị thế cao nhất trong tam giới gồm dục giới, sắc giới và cả vô sắc giới, tức cai quản và điều hành cả thế giới này. Kinh điển gốc Hán gọi “Ngài” là Ngọc Hoàng Thượng Đế.
Ma thiền: phép thiền định tà mị, sai lầm, liên hệ với ma quỷ, đi ngược với chánh đạo.
Ma thuật: nói chung là những hành vi mê tín, dị đoan, phản khoa học.
Ma sự: ý nghĩa của chữ này khá bao quát và rắc rối, nói chung thì đấy là những sự việc, những hành vi sai lầm, ngăn cản sự tu học trên đường Chánh pháp. Những người thực thi ma sự có thể xem như những con ma chạy theo lục trần: yêu sắc đẹp, thích tiếng êm tai, ưa mùi thơm, miếng ngon, thích đụng chạm và sờ mó những gì ưa thích, ước mong những cảnh huống tiện nghi sang trọng. Ma sự cũng là những thứ cám dỗ kích động người tu hành phá giới, chạy theo danh lợi, sắc dục. Ma sự cũng có thể dùng để chỉ người ngồi thiền u mê và ngủ gục, hoặc trụ vào những cảnh hiện ra khi thiền, hoặc cảm thấy bấn loạn trong tâm thức, thấy cảnh dữ mà bỏ thiền… Ma sự cũng dùng để ám chỉ những người đã xuất gia tu hành nhưng còn ham thích luận bàn thế sự, chiến tranh, tình yêu nam nữ, hoặc xu nịnh bọn cư sĩ và bá tánh lui tới chùa có nhiều của cải, cúng dường nhiều, hoặc vướng vào phép bói toán, đoán số mệnh, ếm ma, trừ quỷ…
Vậy Ma thực sự là gì?
Ma hay Mâra là một biểu tượng trong Phật giáo và cả trong Ấn Độ giáo, dùng để chỉ một vị trời hay vị thần linh đứng vào hàng đầu, cao siêu và mạnh hơn hết, giống như định nghĩa của chữ Ma Phạm trên đây. Tên của ma có nghĩa là thần chết. Ma là chúa tể của mọi dục vọng, thèm khát, ham muốn, mọi thứ khoái lạc do thân xác. Đó là chủ nhân ông của thế giới vật chất và mọi hiện tượng. Trọng trách và bổn phận của vị chủ nhân ông này là phải điều khiển và canh chừng sự vận hành của thế giới đang diễn biến chung quanh ta.
Ma còn tượng trưng cho những thèm khát, những xung năng tiềm ẩn thật sâu kín bên trong tâm thức ta, trong sự vận hành chung của ngũ uẩn. Tuy con ma này rất tinh ranh nhưng nếu ta thật chú tâm thì đôi khi cũng có thể trông thấy nó hay bất chợt chạm trán với nó. Thí dụ, vì nóng giận, vì một phút thiếu suy nghĩ, vì thèm muốn khích động quá độ mà ta phạm vào một hành động thật đáng trách, sau đó thì hối hận và ta tự nghĩ rằng không ngờ mình lại có thể phạm vào một hành động tồi tệ đến như thế. Ta có cảm giác hình như “ma xui quỷ khiến” ta phạm vào việc ấy. Như thế là ta đã thấy ma rồi đấy, sự hối hận là một trong các cách giúp mình trông thấy con ma đang ẩn nấp trong thân xác và tâm thức của chính mình.
Còn một con ma nữa mà kinh sách ít nói đến, đó là ma Ái dục (kâma, xin đừng nhầm với karma); là sự yêu mến, lòng yêu thương, hay con ma tình yêu. Ái dục là một thứ bản năng, là tinh anh của sự sống, luôn luôn “canh chừng” và “chăm lo” cho ta rất cẩn thận. Con ma này hiển hiện một cách tuyệt vời, thật đẹp, hoặc thật thanh tú, làm phát sinh ra mọi hình tướng, màu sắc và âm thanh đủ loại, hiến dâng cho ta những ảo giác biến động do chính nó tạo ra, mang lại mọi thứ lạc thú và mọi cảnh giới tuyệt đẹp thuộc vào thế giới luân hồi, và tạo ra mọi thứ hạnh phúc của thế tục.
Vấn đề rắc rối và gay go là con ma tình yêu không bao giờ chú ý đến hậu quả của những thứ do nó tạo ra. Nó rất hào phóng, cho không tiếc tay, “tham” bao nhiêu nó cũng cho, “yêu” bao nhiêu nó cũng khuyến khích, “bám víu” bao nhiêu nó cũng sẵn sàng giúp đỡ. Thế nhưng hậu quả của những ảo giác mà nó đem tặng cho ta thật ra chỉ là khổ đau mà thôi; “lạc thú”, “hạnh phúc lứa đôi”… có thể dẫn đến mưu mô, lường gạt, tự ái, thất tình, tự tử, đâm chém… Những khổ đau ấy ma không cần biết. Ma ái dục tập cho ta thèm khát lạc thú, lệ thuộc vào lạc thú và bị kích động bởi lạc thú, hậu quả rất phức tạp và đa dạng kể ra không hết được. Ma vừa là kẻ sáng tạo và đồng thời cũng vừa là kẻ phá hoại là như thế đó.
Tóm lại, khi nhìn ma qua các khía cạnh như liệt kê trên đây, thì ta sẽ hiểu ngay là ma ngự trị ở đâu: trong đầu của chúng ta. Nó nằm sẵn trong tâm thức ta, trong da thịt ta, trong sự vận hành của thân xác và tâm trí ta. Nói cách khác, ma không phải là một thực thể bên ngoài; nếu không có ta thì cũng không có ma, cái “ta” càng mạnh và càng phức tạp thì “ma” cũng càng đông và càng hung dữ. Ma quân hay những đạo binh ma chính là sự thèm khát, thất vọng, buồn bực, đói khát, bám víu, tham lam, lười biếng, đờ đẫn, sợ hãi, nghi ngờ, hận thù, tiện nghi, kiêu căng, tự phụ, yêu thương một cách ích kỷ, tự mãn với cái “tôi” của chính mình v.v. Nếu cứ tiếp tục suy luận theo chiều hướng đó thì ta sẽ thấy ma còn đông đảo và đa dạng hơn nhiều so với những gì do kinh sách liệt kê, chúng hiển hiện cùng khắp trong thế giới luân hồi này.
Một thí dụ cụ thể về Ma
Để tránh cách trình bày tổng quát, siêu hình và ẩn dụ như trên đây, ta thử đưa ra một vài thí dụ cụ thể và đơn giản hơn về những con ma thường hiện ra để dọa nạt những con người bình dị như chúng ta đây, kể cả trẻ con cho đến người lớn. Chẳng hạn khi ta bước vào một gian phòng tối, ta thấy trong một góc phòng có một con ma, tóc xõa, mặt xanh mét, đang nhe răng trợn mắt… và cười với ta một cách thật rùng rợn.
Nếu ta bình thản, từ tốn, không khiếp sợ, tiến thẳng đến con ma, thì ta sẽ không thấy nó khi ta đến gần. Vì thật ra đấy chỉ là những ảo giác do ta tạo ra trong đầu và do bóng tối mờ ảo nuôi thêm trí tưởng tượng của ta. Nếu như ta vẫn“không dám”tiến đến gần“nó”thì ta cứ bật đèn lên, thì con ma cũng sẽ biến mất. Ngược lại, nếu ta hét lên một tiếng, “vắt giò lên cổ” mà phóng chạy, thì nhất định con ma sẽ đuổi theo, và nhất định là ta sẽ không thể nào chạy nhanh hơn nó được, vì chính ta cõng nó mà chạy. Nó ở trong đầu ta, trong thân xác đang “nổi da gà” của ta.
Tệ hơn nữa, nếu ta đem chuyện “thấy ma” ấy kể lại với đầy đủ chi tiết cho một người khác nghe, rồi người ấy lại kể cho người thứ ba nghe, và cứ thế tiếp tục. Mỗi lần chuyển sang đầu một người khác thì con ma lại trở nên hung tợn hơn và đáng sợ hơn một chút. Biết đâu sau một vòng chu du hết người này sang người khác, ta lại là người được nghe thuật lại về chính con ma ấy với nhiều loại gia vị khiến ta còn sợ con ma đó hơn là “con ma” mà chính ta đã từng trông thấy tận mắt trước đây.
Đức Phật có đưa ra một thí dụ dễ hiểu. Khi bước ngang ngưỡng cửa lúc nhá nhem tối, ta thấy một con rắn. Ta hoảng hốt và giật lùi lại. Thế nhưng khi nhìn kỹ thì đấy chỉ là một cuộn dây thừng. Con rắn ở trong đầu ta, con ma cũng ở trong đầu ta là như vậy. Vì thế, nếu trông thấy có con ma trong góc phòng thì nên bật đèn lên hay tiến đến gần “nó” để xem thực hư ra sao chứ đừng thét lên một tiếng rồi cõng nó mà chạy.
Khi ta ngủ mê, đôi khi ta “thấy ma”, ta hét lên hoặc la ú ớ… Giật mình thức giấc, ta không thấy con ma nào cả. Cái thấy ấy là do tâm thức của ta thấy, hình ảnh con ma hiện lên từ nơi tiềm thức của ta, sinh khởi từ những xúc cảm bấn loạn tiềm ẩn trong ta, từ những nghiệp sâu kín của ta, từ những ám ảnh bịnh hoạn của ta, từ những đam mê, tham dục của ta, từ những bám víu vào ảo giác, sân hận của ta… Đối với những người tu tập cao, nhất là các vị đại sư tu tập theo các phép thiền định của Phật giáo Tây Tạng, thì ít khi họ chiêm bao, hoặc nếu có chiêm bao thì họ cũng chỉ “thấy” những phản ứng thấm đượm lòng từ bi, yêu thương, khoan dung và độ lượng của họ trước những cảnh xảy ra trong giấc mơ, tuyệt nhiên họ không còn thấy ma hoặc những gì làm cho họ khiếp sợ nữa.
Tóm lại, ma nằm trong tâm trí ta, trong tâm thức ta. Nó là chủ nhân ông của mọi tư duy và tác ý của ta. Vị chủ nhân ông ấy khích động và tiếp tay cho sự vận hành của nghiệp. Ngũ uẩn (skandha), hay tổng hợp thân xác và tâm thức ta, là cơ sở chống đỡ cho sự vận hành ấy để tác động với ngoại cảnh để giúp cho nghiệp biến thành quả. Vậy, thực ra con ma chính là cái “ta”, cái “ngã”, cái “tôi” đang ẩn nấp trong ta, đang điều khiển ta. Nói cách khác, con ma ấy chính là ta. Con ma đó đại diện cho vô minh, tức các bản năng thú tính, dục vọng, thèm khát, bám víu, hận thù, ảo giác… kích động và xúi giục ta tìm mọi cách làm thỏa mãn những đòi hỏi đó của nó. Hậu quả đưa đến là khổ đau. Trong đầu ta, ma luôn luôn nhắc nhở ta phải bảo vệ cái “tôi”, cái “ngã” của ta. Nó rất khôn ngoan và khéo léo, vì tùy theo từng người, từng bối cảnh và từng trường hợp mà nó sẽ dùng cách quát nạt, ra lệnh hay vỗ về bằng những tiếng êm ái, dễ thương, hoặc hét lên the thé…, mục đích là để in đậm trong tâm trí ta sự hiện diện của cái “ngã”.
Ma là cái “ngã” đang thống trị ta, dạy ta tham lam, ích kỷ, xúi giục ta, nịnh hót ta để biến ta trở thành đốn mạt, quỷ quyệt và lừa dối. Đấy là cách mà ma đã làm phát sinh ra cả cái thế giới luân hồi này. Cái thế giới của chúng ta nằm trong sự kiềm tỏa của nó, đồng thời nó lại nằm trong tâm thức ta. Ma là hiện thân của sự sợ hãi, đọa đày, già nua và cái chết trong thế giới này. Nó đội lốt của vô minh để tung hoành trong tâm thức ta, tạo ra u mê và lầm lẫn, kích động ta tạo nghiệp, buộc chặt ta vào cảnh giới của Ta-bà. Đánh đuổi con ma ấy ra khỏi tâm thức tức có nghĩa là xóa bỏ cả thế giới luân hồi.
Chỉ có sự tu tập nhằm đạt được những thể dạng tâm thức trong sáng, an bình và tinh khiết mới có thể giúp ta tháo gỡ và phá bỏ cấu trúc của bộ máy do ma điều khiển; tức là đuổi con ma ra khỏi đầu. Sử dụng bùa chú, phù phép hay nghi lễ để đuổi ma thì chẳng những chỉ làm trò hề cho trẻ con xem mà còn làm cho ta thêm hoang mang và khiếp sợ. Lý do thật hết sức đơn giản, nếu muốn đuổi ma trong gian phòng thì nào có con ma nào đâu trong đó để mà đuổi, còn nếu muốn đuổi con ma trong đầu ta thì nó lại quá sức tinh ranh để mà có thể đuổi nó, bởi vì nó biết sử dụng tấm màn vô minh dày đặc của ta để nấp.
Trừ Ma theo Phật giáo Tây Tạng
Trong mục đích“cụ thể hóa”những gì trình bày trên đây, cũng xin mạn phép mượn câu chuyện trừ ma hay trị ma của một vị thánh nhân Tây Tạng là Milarepa, (thế kỷ XI-XII) do một đại sư Tây Tạng khác là Kalou Rinpoché (1904-1989) thuật lại trong một quyển sách của ông như sau:
Milarepa ẩn cư trong một hang động trên Hy-mã Lạp- sơn. Một hôm, khi quay trở về hang, bất ngờ ông gặp một đàn ma hung tợn đang chờ đợi trong hang. Chúng nhe răng và trợn hai mắt to như hai cái đĩa, hò hét thật khiếp đảm, giậm chân làm rung chuyển cả mặt đất để dọa nạt ông. Milarepa bèn chắp tay khấn nguyện vị thầy của mình là Lạt-ma Marpa và các vị Thần linh phù trợ hãy dùng thần lực để tiếp tay với ông, thế nhưng vẫn không thấy hiệu quả gì, đàn ma quỷ vẫn cứ tiếp tục hò hét và vung khí giới để dọa nạt. Ông đổi chiến lược, tỏ vẻ giận dữ, trợn mắt, vung tay và hăm dọa trở lại chúng. Chẳng những chúng không sợ mà còn chế nhạo lại ông, “Nhìn thấy mi múa may như thế, chúng ta thừa biết mi hoảng sợ lắm rồi. Mi mất hết trầm tĩnh và sự an bình rồi. Ha! ha!”.
Milarepa tự nhủ, “Thầy ta là Marpa có dạy rằng những biểu hiện bên ngoài chỉ là những phóng ảnh của tâm thức, bản chất của tâm thức thật ra là trống không và trong sáng. Xem ma quỷ thuộc bên ngoài tâm thức để mà đánh đuổi chúng thì quả đấy chỉ là chuyện hão huyền, chúng là những ảo giác phát sinh từ bên trong tâm thức”.
Milarepa hiểu rằng ông không được phép để cho tâm thức bị ám ảnh bởi những biểu hiện bên ngoài ấy, mà phải giữ cho tâm thức vững vàng. Ông cũng quán nhận được rằng ma quỷ chỉ là những bám víu, những tư duy nhị nguyên phát sinh từ trong tâm thức mình. Tức thời ông hết sợ, chấp nhận sự đối diện với ma quỷ, đồng thời phát lộ lòng từ bi vô biên với chúng. Ông thầm nghĩ: “Nếu chúng nó muốn ăn thịt ta, thì ta cứ hiến dâng cái thân xác cấu hợp này cho chúng ngấu nghiến hầu giúp chúng bớt cơn đói khát. Sự sống là tạm bợ, đây là một dịp tốt giúp ta sử dụng thân xác trống không này để làm một việc thiện”. Thật bất ngờ, thái độ từ bi sâu xa cùng với sự quán thấy tánh Không và vô thường của Milarepa đã khiến lũ ma quỷ biến mất.
Ma sử dụng tấm màn vô minh trong tâm thức ta để ẩn nấp, chúng chỉ hiện hữu trong đầu của ta mà thôi. Những con ma mà chúng ta trông thấy trong góc phòng hay trong giấc mơ là những phóng tưởng của tâm thức. Nếu ánh sáng của từ bi và trí tuệ tỏa rộng thì sẽ không có bóng dáng của một con ma nào có thể hiển hiện ra trong gian phòng hay trong tâm thức của ta được.
Hoàng Phong