Dù quái dị đến khó tưởng tượng, nhưng
hiển nhiên là vậy: các nhà học Phật quá mài miệt nghiên cứu giáo lý của Phật, và
luận giải của chư tổ, mà lơ là hẳn việc khảo sát thẳng vào bài học nội chứng
của Phật. Tôi thiết tưởng điều khẩn yếu cần thâm cứu trước hết để thấu triệt tư
tưởng của Phật là phải khám phá ngay vào bản thể của sự tự giác ấy mà kinh điển
nói rằng Ngài hoát nhiên ngộ đạo khi vào đại định - tam muội tam bồ đề.
Những gì Phật dạy lại các đệ tử
chẳng qua chỉ là phần tinh luyện của trí thức Phật nhằm chỉ cho môn đệ thấy và
thành những gì Ngài đã thấy và đã thành. Kết quả thuần trí thức ấy, dù được
trình bày dưới hình thức triết lý nào, vẫn không lột được tinh thần của sự tâm
chứng ấy của Phật. Bởi vậy, muốn nắm lấy yếu chỉ của Phật giáo - tức nội dung
của Giác Ngộ - ta phải sống thân thiết với cảnh giới tự chứng ấy của người mở
đạo, vì do sự tự chứng ấy Phật mới là Phật, và là giáo chủ của một hệ thống đạo
mang tên Phật. Vậy thử xem kinh điển ghi chép sự chứng nghiệm ấy như thế nào, do
đâu mà có, và hậu quả [1] ra sao.
Trong Trường bộ kinh, phẩm Đại
bản [2], có đoạn Phật thuyết về sáu vị Phật quá khứ ra đời trước Ngài. Đại khái
tiểu sử các vị Bồ Tát và Phật ấy đều hao hao giống như tiểu sử của Phật, trừ
vài chi tiết phụ thuộc, vì người ta lập luận rằng chư Phật đều giống nhau hết ở
bản hạnh. Nên khi Thích Ca, Phật của Kiếp hiện tại, thuyết về chư Phật kiếp quá
khứ, thuật lại sự tự giác của các cổ Phật, Thích Ca thật ra chỉ tổng kết lại
cuộc giáng sinh của ngài ở cõi trần, và mọi chi tiết Ngài thuật lại về chư cổ
Phật đều có thể coi là của chính Ngài, ngoại trừ vài điểm về huyết hệ, giai cấp
xã hội, chỗ sinh, thọ mạng, v. v. . . Nhất là sự tâm chứng của Ngài, gọi là Ngộ
[3] càng đặc biệt giống hệt.
Khi chưa đắc đạo, và còn là Bồ
Tát, Phật yên lặng nhập định, tư tưởng sau đây đến với Phật:
“Thế giới này thật là điên đảo:
người ta sinh ra, rồi lớn lên, rồi già chết, rồi bỏ xác thân này trở lại một
xác thân khác.
Trầm luân trong khổ não, có ai
tìm ra được con đường giải thoát, huống nữa là giải thoát già nua và tử biệt. Ôi,
biết bao giờ mới thoát khổ, thoát sinh lão bệnh tử?”
Nghĩ vậy, Bồ Tát luận rằng vì có
lão nên có tử, vì có tử nên có sinh, vì có sinh nên có hữu, vì có hữu nên có
thủ, vì có thủ nên có ái, cứ thế, theo dòng nhân duyên, Ngài đi đến danh sắc [namarupa]
và thức [vinnana] [4]. Rồi Bồ Tát tiếp tục hết dõi ngược đến lội xuôi suốt dòng
nhân duyên của khổ, từ hiện hữu đến dứt hiện hữu, thì Bồ Tát bỗng dưng mở con
mắt huệ, thấy rõ những việc từ trước chưa bao giờ thấy, đắc tri kiến, đắc giác
ngộ.
Thế rồi Ngài reo to: “Ta đã thấu
được pháp thâm diệu, khó nhận, khó hiểu, vắng lặng, tuyệt vời, không biện giải
gì được, tinh tế, chỉ có thánh nhân mới hiểu được. Nhưng người đời thích bám níu
vào chỗ ưa thích; mà đã bám níu, đã ưa thích, thì bị trói buộc trong ưa thích, làm
sao rõ lẽ cái này sinh ra từ cái kia, và tất cả điều diễn ra trong vòng nhân
quả. Và cũng rất khó nhận định tại sao phải chấm dứt hết tạo tác trong đời, phải
đừng gây nghiệp tái sinh, phải xả trừ hết bám níu, phải diệt hết mê luyến, phải
tịnh tâm, phải chứng Niết Bàn”.
Rồi đức Phật tuyên xứng bài kệ
sau đây, ngụ ý ngần ngại trong ý định phổ truyền đạo pháp cho thế gian - cái
Pháp mà Ngài vừa tâm chứng, Ngài thấy tận mắt, không qua một sự học hỏi cổ
truyền nào:
“Cái ấy, trải bao công khó, mới hàng phục được.
Thế là xong! Ích lợi gì ta đem ra truyền bá?
Người đời vốn mê đắm trong tham sân
Làm sao lãnh hội được Pháp [chân lý] ấy!
Đối với nếp cảm nghĩ của thế gian,
Pháp này thâm diệu, thù thắng, nhiệm mầu,
Làm sao truyền được cho loài
người bị si mê trói buộc đắm chìm trong đêm tối của vô minh. [5]
Đó, theo các nhà trước thuật
Nikaya thuật lại, và cũng được nhiều văn liệu khác xác nhận, ta thấy rõ sự Giác
Ngộ bừng lên tự tâm Phật phải là một sự chứng nghiệm hoàn toàn đặc thù, không
thể phát sinh tự một tâm thức tầm thường, cả đến tâm thức của các bậc minh
triết, thông thái, học nhiều nghĩ nhiều. Nên tự nhiên Phật muốn im lặng thâu
thần vào Niết Bàn, không mở Pháp; nhưng sau đó Phật đổi ý nhân có lời thỉnh cầu
của đức Đại Phạm Thiên trong bài kệ như sau:
“Như một người chót vót ngự trên đỉnh núi, nhìn xuống thế gian đâu đâu
cũng thấy,
Cũng vậy đó, bạch Ngài, đấng Toàn Giác, đấng Toàn Trí, Người chứng Pháp
vô thượng,
Nhìn xuống thế gian đắm chìm trong sinh tử luân hồi.
Xin đứng lên, đấng Trượng Phu! Đấng Toàn Thắng! đấng Pháp Vương rũ sạch
hết lậu nghiệp!
Hãy đi khắp cõi đời, Bậc Đạo Sư trang nghiêm Phước Huệ, dạy Pháp cho
chúng tôi. Thế gian đang chờ Ngài. ”
Thật quá rõ ràng chính sự tâm
chứng ấy chuyển Bồ Tát thành Như Lai, Ứng Cúng, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện
Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế
Tôn. Đó là chỗ tất cả kinh điển, Tiểu Thừa và Đại Thừa, điều tán đồng.
Đến đây nảy ra câu hỏi đầy ý
nghĩa nhất trong lịch sử Phật Giáo. Thật vậy, thử hỏi cái gì trong sự tâm chứng
ấy khiến Phật chiến thắng vô minh, gội sạch hết cảm nhiễm? Cái kiến chiếu ấy là
gì phóng vào sự vật khiến Phật thấy những cái từ trước chưa bao giờ thấy? Phải
chăng đó là giáo lý “khổ đế” do “ái” và ‘thủ” mà có? Phải chăng đó là giáo lý
“nhân quả’ mà Phật đã phăng mối đến tận “vô minh”, coi như nguồn gốc của khổ
đau phiền não?
Chắc chắn không phải vì vận dụng
trí óc nhiều mà Phật ngộ đạo. “Không thể dùng trí suy luận thường mà hiểu được”
là câu nói thường gặp luôn trong văn học Phật giáo, Pali và Phạn ngữ. Sự hoan
lạc Phật trải qua lúc ấy thật sâu đậm quá, thâm thía quá, và hậu quả vô biên
quá, không thể thuộc phạm vi suy luận. Trí suy luận chỉ đủ sức đưa đến một sự
thỏa mãn thường khi thắc mắc được đánh tan, nhưng không đủ cương yếu để đi vào
chiều sâu của đời sống nội tâm. Không phải tất cả nhà thông thái đều là thánh, mà
không phải thánh nào cũng là thông thái.
Sự quán tưởng bằng lý trí luật
nhân quả của Phật, dù toàn hảo và tuyệt luân đến mấy, vẫn không chắc gì quyết
định được sự chiến thắng vô minh, đau khổ, sinh tử và ô nhiễm. Dõi theo chúng
đến tận đầu nguồn, hoặc xâu chúng thành chuỗi xích nhân duyên, là một việc, còn
hàng phục chúng, chế ngự chúng trong thực tế của sinh hoạt là một việc hoàn
toàn khác. Ở trường hợp đầu, chỉ có trí thức là hoạt động, còn ở trường hợp sau
còn có tác động của ý chí - và ý chí tức con người. Không phải Phật chỉ tìm ra
Mười Hai Nhân Duyên, mà chính tự tay Ngài nắm lấy chuỗi xích, bóp nát tan tành,
để nó không còn trói buộc Ngài nữa được.
Nhãn quang của Phật kiến chiếu
đến chỗ cùng tuyệt của thể tánh Phật, và Phật thấy tất cả ý “như thực” chẳng
khác nào ta thấy bàn tay của ta bằng đôi mắt của chính ta - nghĩa là trực tiếp,
không suy nghĩ, không biện giải, không khen chê, không so sánh, không tuần tự
từng bước đắn đo; Ngài thấy, thế là hết chuyện, còn gì mà bàn, mà luận, mà giải
nữa. Phật thấy, thế là đủ rồi, không còn phải hướng tới đâu hết, trong cũng như
ngoài, bên này cũng như bên kia. Và chính vì mức độ viên mãn và cùng tuyệt của
cái thấy ấy mà Ngài mãn nguyện; Ngài biết chuỗi xích đã nát vụn rồi, và Ngài là
người giải thoát. Vậy, sự tự chứng tự giác của Phật không bao giờ có thể lãnh
hội được bằng tri thức suy luận chỉ gây thêm cực hình, nhưng bất lực không hiện
thực được cảnh giới Giác Ngộ.
Kinh nghiệm của Phật về nỗi khổ
trong đời là một kinh nghiệm thực tế, sâu và mạnh khác thường, nên đã chấn động
toàn thể con người của Phật; và hậu quả là sức thâm cảm phản ứng lại trong giờ
hành đạo của Phật sau này đáp ứng đúng với cao độ của cảm giác ấy. Thật không
gì hiển nhiên hơn Phật không thể tự mãn với một cái nhìn phiến diện, hoặc quán
tưởng suông bằng trí thức, những cơ sự của cuộc sống. Để trấn định tuyệt đối
những đợt sóng lao xao nổi dậy trong tim, Ngài cần viện đến một cái gì thâm
diệu hơn, của chính tự thể của Ngài. Vì xét cùng ra, trí thức chỉ là một ông
khách bàng quan, nên muốn nó làm gì thì nó cũng so đo hơn thiệt đòi trả công. Một
mình nó, nó không tạo được trạng thái tâm chứng gọi là ngộ. Cảm giác tự do
tuyệt đối, cảm giác “aham hi araha loke, aham satta anuttaro” [6] không thể là
cái biết thuần trí thức của một khối óc cao. Ở Phật phải có một ý thức khác, tinh
yếu hơn, mới có thể đưa đến cảnh giới tự giác thâm diệu tối cao ấy.
Để diễn lại cảnh giới tự giác ấy,
các nhà văn học Phật tận dụng cả một khi từ ngữ đủ bản sắc, về luận lý cũng như
về đủ phương diện khác. Những từ ngữ thường dùng là những chữ này: trí, huệ [bát
nhã], chứng, ngộ, thành, giác, kiến. [7] Trên thực tế, hễ ta còn thu hẹp ta
trong vòng trí thức, dù uyên bác quang minh thế mấy, thì bản thể của sự vật vẫn
thoát khỏi ta. Vì lý do đó, cả đến những người gọi là Phật tử nguyên thỉ, được
coi là thực nghiệm, duy lý, và bất khả tri, vẫn phải vận dụng một năng khiếu
khác thường hơn, không can hệ gì đến cái tôi thuộc kinh nghiệm, để nhắm đến
những gì thâm diệu hơn là sự hiểu biết của thế gian trong vòng tương đối.
Kinh Phổ Diệu, phẩm “vô thượng bồ
đề” của Đại Thừa Giáo còn tỏ ra dứt khoát hơn về bản chất của sự dụng tâm hoặc
trí huệ ấy đã chuyển Bồ Tát thành Phật. Theo kinh thì “bỗng chốc trong một niệm,
bằng trí Bát Nhã, Phật chứng Vô Thượng Bồ Đề. ” [8] Vậy, trí Bát Nhã ấy là gì?
Đó là một sự hiểu biết đạt đến ở một tầng cao hơn kiến thức tương đối thường. Đó
là một năng khiếu bao gồm cả trí và tâm, và một khi nó phát động thì tất cả
xiềng xích của trí thức đều gãy đổ hết.
Trí thức luôn luôn kẹt ở hai đầu,
có người biết [năng tri] và vật được biết [sở tri], còn Bát Nhã là sự kiến
chiếu, trong một niệm, không phân biệt chủ thể khách thể, cả hai đều gồm thâu
trong một sát na [ikshana], trong một tâm [ekacitta], và giác là kết quả của
cái ấy. Bằng vào những đặc tánh ấy của Bát Nhã, các nhà Đại Thừa Giáo rọi được
nhiều tia sáng vào bản chất của tri giác bồ đề [sambodhi]; khi tâm chuyển ngược
lại nếp vận động thường, thay vì phân tán ra ngoài thì thu nhiếp vào trong đến
chỗ nhất như, đó là bắt đầu thành tựu trạng thái “soi thấy trong một niệm” [nhất
tâm kiến chiếu], vô minh hết tạo tác, và những cảm nhiễm [lậu] hết hoành hành.
Giác là vậy, một trạng thái tuyệt
đối của tâm dứt hết phân biệt: vọng tưởng hoặc biến kế chấp. [9] Để thể nghiệm
trạng thái kiến chiếu muôn vật “trong một niệm” ấy phải có một khí lực dũng
mãnh. Thật vậy, tinh thần luận lý và thực tế của ta quá chuộng phân tích và
luận giải; nói một cách khác, ta hay cắt thực tại thành nhiều phần manh mún để
tìm hiểu riêng từng phần; nhưng khi ta ráp tất cả để làm lại cái toàn thể ban
đầu thì phần nào cũng nổi bật riêng nhau quá, tỏ rõ nên ta không thể thâu nhiếp
cái toàn thể “trong một niệm” [10]. Và vì lẽ có “nhất niệm” mới có giác nên cần
nỗ lực vượt qua cái thế đối đãi ấy của ý thức kinh nghiệm chấp dính vào cái
nhiều thay vì cái một của sự vật. Nên việc làm thiết yếu nhất nổi bật trên bối
cảnh ngộ đạo là Phật đã vận dụng tất cả khí lực bình sinh để giải quyết vấn đề
vô minh, tất cả hùng lực của ý chí để thoát ra cuộc chiến.
Ta đọc thấy trong bộ Katha
Upanishad:
“Cũng như nước mưa từ đỉnh núi
chảy xuống khắp nơi, cũng vậy, người nhiễm phải cái thấy có sai biệt chạy khắp
nơi đuổi theo sự chấp trước. Cũng như nước trộn vào nước vẫn là nước, này Cồ
Đàm, cái biết của người biết cũng như vậy đó”.
Trộn nước với nước, theo nghĩa ở
đây, là “kiến chiếu những cái sai biệt trong một niệm”, một cái thấy cũng tuyệt
chặt đứt khối luận lý lầy nhầy, chằng chịt, vô vọng, nhô lên trên tất cả cái dị
và cái đồng, và dung thông trong cái một tuyệt đối của người biết và cái biết. Trong
cuộc sống thực tế đầy mâu thuẫn của chúng ta, quả đó là một thế chuyển ngược, một
sự vặn tréo, một sự chấn chỉnh lại vậy.
Ông Eckhart, nhà huyền học tên
tuổi ở Đức, không hẹn mà nên, đã kỳ ngộ một cách khoái trá quan niệm “kiến
chiếu muôn vật trong một niệm” của Phật giáo khi Ngài tuyên bố:
“Tôi thấy Chúa bằng con mắt nào
thì cũng bằng con mắt ấy Chúa thấy tôi. Mắt tôi, và mắt Chúa, chỉ là một con
mắt, một khuôn mặt, một hiểu biết, một tình thương” [11].
Khái niệm “chuyển ngược” còn được
Jacob Boehme cực tả trong hình ảnh “Umgewandtes Auge” là con mắt “chuyển ngược”,
có khả năng nhận ra Chúa.
Vậy, Giác Ngộ phải gồm cả ý chí
lẫn tri thức. Đó là một hành vi trực giác phát sinh từ ý chí. Ý chí muốn tự
biết nó là gì, ý như thực - yatha bhutam dassana [12]- ngoài tất cả điều kiện
chi phối sự hiểu biết. Phật đã chứng đến đó khi Ngài bứng lên một kiến chiếu
mới sau bao lần loanh quanh trong vòng luận lý từ lão, tử đến vô minh, rồi từ
vô minh đến lão, tử, dõi suốt mười hai mắc xích của lý duyên khởi. Phật cứ dẫm
tới dẫm lui nát miếng đất ấy, vì Ngài bị kẹt vào một ngõ cụt trí thức, lui tới
hết đường; lặp đi lặp lại mãi diễn trình ấy, phải đâu Phật dụng ý xây dựng lên
cho Ngài một hệ thống triết học riêng, như ban đầu người ta đã tưởng vậy.
Thật vậy, bấy giờ Phật không còn
biết làm sao thoát cái vòng tư tưởng lẫn quẩn ấy, mà đầu này là sinh lão tử, còn
đầu kia là vô minh. Một mặt Ngài không chối bỏ được những sự kiện khách quan
hiện ra sừng sững, phủ phàng trước mắt, một mặt vô minh cứ cản ngăn trí năng
Ngài vượt ra xa hơn, đúng ra là đi sâu vào hơn, Ngài bị kẹt ở hai đầu, không
sao thoát được, hết loanh quanh đường này lại lẩn quẩn ngã kia, mà kết quả vẫn
là vô vọng như nhau - sự vô vọng tuyệt đối của con đường dụng trí. Nhưng vốn là
người bất khuất, Ngài muốn, với tất cả đại hùng lực của ý chí, đi ngay vào bản
thể của vấn đề, Ngài cứ đập mãi, đập mãi vào vô minh kì cho cửa phải mở tung
ra: thế rồi trước mắt Phật bày ra chân trời mới lạ bấy lâu chưa từng thấy. Do
đó mà sau ngày thành đạo, trên đường đến Ba La Nại, gặp đạo sĩ lõa thể Upaka, Ngài
reo to:
Ta là Bậc Tối Thắng, ta là Bậc Toàn Trí,
Xả trừ hết ô nhiễm và trần cấu,
Lìa bỏ tất cả, lửa tham dục đã tắt,
Ta không học với ai thì còn biết gọi ai là Thầy?
Những gì ta biết, ta không học với một ai,
Không ai bằng ta trên thế gian này
Dù sinh ra ở cõi phàm hoặc cung trời,
Không một ai bằng ta hết.
Ta đã thực sự chiến đoạt quả giải thoát,
Toàn thế gian, ta là bậc Vô Thượng Đạo Sư,
Độc nhứt trong đời, hoàn toàn Giác Ngộ,
Ta ngự trong yên vui vô lượng [13]
Khi nói đến Chứng Đạo hoặc Giác
Ngộ, tự nhiên ta dễ liên tưởng đến khía cạnh nhận thức và quên mất động lực phi
thường của ý chí tác động ở bên sau, mà cũng chính là động lực cấu tạo nên cốt
cách của một cá nhân. Đặc biệt trong Phật giáo, trí thức chiếm nhiều ưu thế quá,
có lẽ hơi quá đáng phần nào, trong việc thành tựu lý tưởng sống đạo, nên hàng
học giả thường quên mất ý nghĩa của ý chí, là yếu tố quyết định sự giải quyết
đại sự của cuộc sống. Do đó, tâm trí họ hướng hết vào giáo lý duyên khởi hoặc
diệu đế, được coi như lời dạy tối cao của Phật.
Thật không gì lầm hơn, cũng như
họ từng chấp lầm Phật giáo là một thứ học thuật thuần đạo đức, cho rằng đó
chẳng qua chỉ là một hệ thống luân lý học [giới], không thần, không Chúa, và
như vậy không hứa hẹn một hình thức bất tử nào. Nhưng ý nghĩa thâm yếu của Phật
giáo về vô minh. Nhân Duyên và Giới Hạnh còn có một căn bản sâu vững khác
thường hơn trong đời sống tâm linh của con người. Thật vậy, vô minh không có
nghĩa là thiếu cái sáng về kiến thức, mà chính là sự tối tăm trong tri giác nội
tại. Nếu vô minh chỉ nằm trong phạm vi kiến thức thì khi kiến thức sáng lên rồi
sao vẫn không có, và không thể có, kết quả là Giác Ngộ, là thoát ly tất cả ràng
buộc, và ô nhiễm, và ung độc như ta thấy ở các học giả Pali?
Tri giác của Phật chiếu sâu vào
thể tánh cũng như vào ý chí của Ngài, và Phật biết nó là như thế ấy, yatha
bhutam là như vậy đó tatha bhava và chính từ sự hiểu biết như thực, như thị [14]
ấy Ngài vươn lên trên chính mình để hiện thực là Phật, vô thượng và tối thắng. Thành
ngữ “vô thượng chánh đẳng chánh giác” [15] là chỉ vào cái biết thấy siêu việt
ấy do Phật tự chứng tự ngộ lấy.
Vô minh, phản nghĩa của Giác Ngộ,
ở đây có một ý nghĩa thâm diệu hơn nghĩa thông thường từ trước ta gán cho nó. Vô
minh không có nghĩa suông là thiếu kiến thức, hoặc không am tường một lý thuyết,
một học thuật, hoặc một luật lệ nào đó. Vô minh chính là không nắm được những
sự kiện thiết cốt của cuộc đời biểu hiện ra từ ý chí. Trong vô minh, cái biết
tách rời sự biết, và người tách rời cái được biết; trong vô minh, ngoại giới
biệt lập với nội tâm, nghĩa là luôn luôn có những cặp mâu thuẫn đối lập nhau. Đó
là cốt cách tự nhiên của trí thức vậy, nên hễ có biết là có Vô minh gắn liền
theo hành vi biết.
Khi ta tưởng biết một việc gì thì
vẫn có một việc gì khác mà ta không biết. Cái không biết luôn luôn nằm sau cái
biết, và không bao giờ ta nắm được người “chủ” vô danh của cái biết, mặc dù ông
ta luôn luôn là người bạn đồng hành, không tránh đâu được, có mặt trong mỗi
hành vi biết. Dù vậy, ta vẫn muốn biết ông chủ vô danh ấy, ta không thể để ông
đi qua mà không biết gì hết về ông không nắm lấy ông, không thấy chân tướng của
ông. Nói một cách khác, là phải chiếu kiến vào vô minh, và đó quả là một đại
mâu thuẫn, ít ra trên mặt nhận thức. Nhưng hễ không qua khỏi ngưỡng cửa ấy thì
tâm ta không yên, và đời sống trở thành một cực hình không chịu đựng nổi.
Trên đường tìm kiếm người chủ căn
nhà ốc xá giả [16] Phật luôn luôn húc đầu vào vô minh, tức người chủ vô danh
của sự biết ở bên sau cái biết. Đã bao lâu rồi, Phật không rớ tay được vào ông
ta dưới lớp mặt nạ đen cho đến khi Ngài vượt qua, ấy không phải là một hành vi
trí thức mà chính là một sự tự ngộ, một sự tâm chứng hiện thực ngoài tất cả
khuôn phép luận lý, nên vô minh không tháp tùng theo được.
Cái biết mà ta có được về chính
mình, trong chính mình, như thực là chính mình, cái biết ấy không thể đạt tới
bằng bất cứ phương tiện trí thức nào, vì trí thức nào cũng không được phép vượt
ngoài thân phân hữu hạn của nó. Vô minh chỉ có thể hàng phục được bằng cách
vượt ngoài qui tắc của nó. Đó là một hành vi của ý chí. Vô minh, tự nó, không
có tội, mà cũng không phải là nguồn gốc của tội lỗi; nhưng nếu ta không thấu
suốt được vô minh là gì, và ý nghĩa của vô minh là gì trong cuộc sống, thì mọi
tội lỗi sẽ nối tiếp nhau, chằng chịt, không cùng tận. Và tham ái - tansha - đầu
mối của tội lỗi, chỉ có thể chế ngự được khi lý vô minh được quán chiếu đến chỗ
tuyệt cùng.
2. Bản chất của Vô minh
Bởi vậy, các nhà học Phật không
gì lầm hơn là đùn vô minh vào quá khứ để lý giải Mười Hai Nhân Duyên [17] trên
quan điểm thời gian. Họ chia hai khoen đầu của chuỗi xích thuộc quá khứ, tám
khoen giữa thuộc hiện tại, và hai khoen chót thuộc vị lai. Vô minh, đầu mối của
loạt nhân duyên, không có giới hạn nào hết về thời gian, vì nó không thuộc về
thời gian mà thuộc về ý chí, cũng như giác ngộ. Đưa quan niệm thời gian vào đó
ắt giác ngộ, tức là sự tiêu cực xả trừ vô minh, mất hết tính cách cứu cánh, để
rồi ta lại lẩn quẩn đi tìm một cái gì khác ở ngoài nó; thế là sợi dây ràng buộc
càng siết thêm quanh ta và những cảm nhiễm [asava = lậu hoặc] hóa thành thân
phận ngàn đời của chúng ta. Không một vị trời nào không ca tụng Giác Ngộ như
“một hoa sen bừng trên biển trí, không chút bợn phiền não, như vầng nhật đánh
bạt hết bóng vọng tưởng, như vầng trăng dập tắt lửa tội lỗi nung đốt người đời.
” [Thế Thân Phật sở hành tán].
Nếu Giác Ngộ đã làm cho toàn thể
vũ trụ rung chuyển sáu cách khác nhau như kinh chép thì Vô Minh, khi chưa bị
hàng phục, ắt vẫn có đủ thần lực ấy, dù rằng, vì bản chất và hiệu lực, thần lực
ấy diễn ngược hẳn lại với Giác Ngộ. Coi vô minh như một con số trí thức trong
bài toán nhân duyên, rồi giải thích nó trong thế đối đãi của thời gian là hoàn
toàn hủy bỏ tánh chất đệ nhất nhân duyên căn bản của nó trong chuỗi xích duyên
khởi.
Uy lực phi thường Phật tác động
vào người đương thời cũng như đến với hậu thế phải đâu do thuật biện tài xảo
diệu và đanh thép của Phật; đành rằng không ai chối cải diệu thuật ấy ở Phật, nhưng
cốt yếu nhất uy lực ấy có được là do tâm thể quảng đại và phong cách thâm diệu
của Phật phát ra từ một đại hùng lực của ý chí phóng sâu vào tận đầu nguồn khai
sáng. Phật thắng vô minh là do Phật thi triển hùng lực ấy, một ý chí vạn năng
vậy, mà Ma Vương và đoàn ma quân đành thất bại tan tành trong mưu toan hoặc
khuất lấp hoặc mê hoặc Phật. Không nắm được tinh nghĩa ấy của vô minh trong hệ
thống duyên khởi hoặc Thánh Đế chắc chắn sẽ ngộ nhận thực chất của Giác Ngộ, và
do đó ngộ nhận luôn Phật Giáo.
Thoạt tiên - nhưng thực sự không
đâu là thoạt tiên hết trong lẽ đạo, ngoại trừ trong cuộc sống hữu hạn của ta, ý
chí nảy ra một cái muốn, muốn tự biết nó; ấy thế là mống lên một ý thức, là
động niệm, và hễ động niệm thì ý chí bị phân hai [18]. Ý chí, bản lai là một, là
viên mãn một, giờ đây bỗng phân hóa làm hai, thành chủ và khách. Xung đột, do
đó, không tránh được. Chủ thì muốn thoát ly tất cả những gì ràng buộc nó trong
ước vọng hiểu biết. Kể ra tự nó có khả năng biết được, nhưng đồng thời, với
tính cách là khách, vẫn có cái gì nó không thể biết được.
Trên đường cầu hiểu biết, Vô Minh
theo liền kiến thức, khắc nghiệt như một định mạng, như bóng theo hình, không
sao tách rời được hai ông bạn đồng hành ấy. Nhưng ý chí với tính cách là chủ, buộc
phải trở về uyên nguyên, như khi chưa phân hóa thành mâu thuẫn, tức là chốn
thanh tịnh an nhiên. Nhưng “tình quê” ấy không thể thỏa mãn được nếu không trải
qua những thử thách dẳng dai, đầy kham khổ. Bởi lẽ một khi cái một bị tách làm
hai rồi thì chiến đấu là cần, rất dũng mãnh, mới phục hồi được nguyên trạng. Nhưng
phục hồi không phải chỉ là phản bản hoàn nguyên, vì cái “bản” ban đầu nhân phân
hóa, chiến đấu và hoàn phục còn được sang giàu thêm gấp bội.
Khi sự phân hóa mới phát hiện đầu
tiên ở ý chí, ý thức mảng say mê nó mới nó lạ, nó có tài giải quyết những vấn
đề thực dụng nên quên mất sứ mạng của nó, là chiếu sáng ý chí. Thay vì chuyển
ngược cái sáng vào trong chính nó nghĩa là vào ý chí, tự đó nó bắt nguồn hiện
hữu, nó lại đeo dính thế giới khách trần, hiện tượng và khái niệm; thảng hoặc
nó phản tỉnh lại mà nhìnvào trong thì thấy ngay ở đó một thế giới thuần nhất
tuyệt đối, và những gì là đối tượng bấy lâu nó khao khát tìm hiểu lại vẫn là
chủ thể, tức chính nó vậy.
Gươm không tự chặt được gươm. Ý
thức không quét sách được Vô Minh vì vô minh là thể chất cố hữu của ý thức. Chỉ
còn có cách là ý chí vận hết khí lực bình sinh để tự mình tự độ, mà vẫn không
phá đổ ý thức cố hữu, hoặc nói đúng hơn, là để thấu đạt đến căn nguyên xung yếu
nhất của ý thức. Đó là điều đã thành tựu ở Phật, khiến Ngài không còn là Cồ Đàm,
mà trở thành bậc Chánh Trí, bậc Thế Tôn, bậc Toàn Giác. Trong ý chí thật ra còn
có cái gì khác hơn là ý chí, còn có cái biết và cái thấy. Thấy là tự thấy, nhân
đó ý chí được tự do tự chủ. Đó mới thật là “biết” theo nghĩa cốt yếu nhất, và
chính từ trong cái biết ấy Cồ Đàm chết đi sống lại để thành Phật.
Hễ ý chí còn bị đánh lừa bởi
những gì do chính nó tạo ra, hoặc phản chiếu ra, thì Vô Minh còn ưu thế, và
luôn luôn còn có ý thức phân biệt người biết và cái biết biệt lập nhau. Sự đánh
lừa ấy dù sao cũng không kéo dài được trước ý chí muốn được sáng tỏ, được tự do
tự tại. Vô minh bao giờ cũng giả thiết có một cái gì chưa biết ở bên ngoài, cái
thường được gọi là tự ngã, hoặc linh hồn, nhưng xét cùng ra chỉ là ý chí ở
trạng thái Vô minh.
Nên khi Phật ngộ đạo, Ngài tỏ rõ
ngay không đâu có tự ngã, không đâu có linh hồn từng được coi là một thực thể
chưa biết và không thể biết. Giác Ngộ đánh bạt hết Vô Minh, và cùng với Vô Minh
biến mất luôn tất cả hình ma bóng quế phảng phất lên từ đáy hang sâu thẩm của
cái tôi. Vô minh thường hiểu là phản nghĩa với kiến thức, nhưng trong giáo lý
Phật giáo, nó đối lập với Giác Ngộ, và có nghĩa là cái tôi, cái “atman” mà Phật
đã phủ nhận với tất cả khẩn thiết. Đó không có gì phải ngạc nhiên khi ta thấy
rõ tất cả lời Phật dạy đều qui thúc vào giáo lý Giác Ngộ là giáo lý đã đánh bạt
Vô Minh.
Học Phật mà chỉ thấy có lý vô ngã,
không màng thâm cứu lý Giác Ngộ, ắt không nhận chân được tất cả ý nghĩa của
thông điệp Phật trao cho thế gian. Kể ra, trên phương diện tâm lý, Phật phủ
nhận cái tôi sau khi nghiền nhỏ nó thành từng phần, chỉ một việc ấy, trên
phương diện khoa học, Phật đáng gọi là vĩ đại rồi, vì khả năng phân tích của
Phật thật đã vượt hẳn người đương thời; tuy nhiên, nếu chỉ có vậy thì ảnh hưởng
của Phật, với tư cách là bậc lãnh đạo tinh thần, không thể phổ quát và lâu dài
đến thế.
Giáo lý vô ngã của Phật không
phải chỉ thiết lập lên bằng một cuộc khảo sát khoa học như hiện nay, mà cốt yếu
hơn đó là kết quả của một sự tu chứng. Nếu Vô Minh được thấu triệt đến cùng lý
thì Vô Minh diệt, và đương nhiên cái tôi cũng bị phủ nhận luôn, không còn là
một thực thể căn bản cho mọi hoạt động trong đời.
Giác Ngộ là một quan niệm thực tế,
rất khó nhận chân được cho người thường. Chỉ khi nào ta nhận ra ý nghĩa của nó
trong toàn bộ Phật giáo, và dồn hết nỗ lực nhằm hiện thực nó, thì đương nhiên
mọi việc khác sẽ tự giải quyết lấy, như khái niệm về Ngã, Ngã chấp, Vô Minh, Triền
phược, Lậu hoặc, v. v. . Giới hạnh, quán tưởng, cầu lý, tất cả phương tiện ấy
chỉ nhằm đưa đến cứu cánh duy nhất đặt ra cho Phật giáo, là Giác Ngộ. Phật
thường nhắc đi nhắc lại cho môn đệ giáo lý nhân quả, thường dạy vì sao khi nhân
có thì quả có, và bằng cách nào nhân dứt thì quả dứt theo, đó không phải Phật
cốt gắn vào họ một thứ luận lý hình thức, mà chính mở quả trực tiếp thế nào với
hạnh phúc, tự do và yên vui tinh thần của con người.
Hễ còn coi Vô Minh như thiếu khả
năng biện luận để hiểu biết thì khi hiểu biết rồi, khi Vô Minh diệt, vẫn không
bao giờ đưa đến giải thoát và tự do, thứ tự do mà cả đến các bản văn Phật giáo
cổ nhất vẫn thường ám chỉ với tất cả khẩn thiết. Thử đọc lời tuyên bố sau đây
của vị La Hán ấy [Phật] trong bộ Nikaya về tâm tự do giải thoát: “Tâm tôi bỗng
bừng sáng lên chứng quả giải thoát vô thượng. Đây là thọ thân sau rốt của tôi, từ
đây dứt hết nghiệp tái sinh rồi”. Câu nói sắc và mạnh làm sao, chứng tỏ Phật đã
nắm lấy mạch sống với tất cả nhiệt thành và quyết tín. Đoạn văn thật đã định rõ
đặc tính của quả vị La Hán. Nếu muốn thêm chi tiết, thì đây:
“Bằng cái biết như vậy, bằng cái
thấy như vậy, [19] tâm người thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi
vô minh lậu. Giải thoát, người biết được giải thoát. Người biết cuộc tái sinh
này đã giải trừ xong, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại
không còn thọ thân nàokhác”.
[Kinh Tu Bà, Subha sutta]
Xét cùng ra, La Hán tức là Phật, mà
cũng tức là Như Lai. Ban sơ, lịch sử Phật giáo dường như không phân biệt gắt
gao lắm các danh từ ấy, và đại khái có thể dùng lẫn lộn cho nhau.
Nói về những luận giải khác nhau
của ngoại đạo thịnh hành đương thời, Phật có những nhận định sau đây về sự thấy
biết do Như Lai tự chứng:
Điều ấy Như Lai đã biết, mà còn
biết nhiều hơn thế nữa, nhưng Như Lai không chấp vào những sở tri ấy. Vì không
chấp nên tâm được tịch tĩnh. Như Lai biết “như thực”, tướng sinh diệt của cảm
giác [thọ], hương vị và độc vị của chúng, nên Như Lai được giải thoát hoàn toàn,
sạch hết tập khí cảm nhiễm. Có nhiều pháp khác cao thâm, khó hiểu, tịch tĩnh, uyên
áo, không thấu đạt được bằng tỉnh thức, cơ trí, chỉ có hàng thánh mới lãnh hội
được; những pháp ấy, Như Lai đã tự chứng, tự giác, và nói lên: và chính đó là
những cái cần được tuyên xưng trước hết những ai muốn tán thán Như Lai đúng
theo chánh Pháp.
[Kinh PhạmVõng, đoạn 30, 31]
Thật quá hiển nhiên những đức
tướng Như Lai từng được ca tụng ấy, Phật không có được nhờ nghĩ nhiều luận giỏi.
Đành rằng về trí thức, cái thấy của Phật cũng sắc bén, cũng quán xuyến như bất
cứ người đương thời nào, nhưng ngoài ra Phật còn một năng khiếu tuyệt vời hơn, còn
uy lực của ý chí Ngài vận dụng đến mức cùng tuyệt nhằm phát huy tất cả đức
tướng ấy toàn thuộc thể tánh Như Lai.
Và cố nhiên là Phật không cần
đương đầu với những câu hỏi siêu hình ấy từng ray rức các triết gia đương thời,
mà chính các câu hỏi ấy đương nhiên được giải quyết trong Ngài khi Ngài chứng
tâm thanh tịnh giải thoát, mà là giải quyết toàn bộ, tổng hợp, chứ không phải
manh mún, tạm bợ, ví như trường hợp những câu hỏi trên được đặt lên cho trí
thức suy luận của Phật thành những vấn đề triết học. Đó chính là ánh sáng cần
phải có để lãnh hội bộ kinh Mahale[20]. Nhiều học giả băn khoăn tự hỏi tại sao
hai khái niệm hoàn toàn khác biệt nhau lại đem diễn chung trong một bộ kinh; sự
thắc mắc ấy chứng tỏ nặng tinh thần kinh viện, họ không biết gì hết về tâm đạo,
vì họ không thiết tha với yếu tố Giác Ngộ nằm trong hệ thống tín ngưỡng Phật
giáo. Muốn hiểu, cần một trực giác giàu tưởng tượng phóng thẳng vào trung tâm
cuộc sống, thay vì ỷ vào tài văn học, ngữ học để khám phá những đạo nhiệm mầu.
Mahale là một bản kinh Pali trong
Trường Bộ Kinh. Kinh chép Ngài Mahale hỏi Phật về mục đích tu tập của các đệ tử,
và sau đây là đại khái lời Phật dạy: “Người Phật tử không tu thiền tập định
nhắm chứng phép thần thông như thiên nhãn thiên nhĩ! [21] Có những pháp còn cao
diệu hơn, thù thắng hơn, như đoạn dứt ba kiết sử [dây ràng buộc: kiến kiết, nghi
kiết, giới thủ kiết], thành bậc dự lưu, không đọa ác thú. . . thành bậc nhất
lai, còn phải trở về lại trong đời này. . . thành vị hóa sinh, nhập Niết Bàn
lại đây, không còn trở lại thế gian này nữa. Những câu hỏi như trên của ông về
“hồn [mạng căn] và xác [thân thể] là một hay là khác” là một vọng tưởng; vì một
khi đạo nhãn của ông mở ra, và ông thấy “như thực”, biết “như thực” nghĩa là
hết bị triền phược, ô nhiễm, và sinh diệt triền chuyển, thì những vấn đề hiện
dày vò ông trở thành vô nghĩa, không còn đặt ra nữa. Nên tôi không cần giải đáp
cho ông”.
Cuộc đối thoại trên giữa Phật và Mahale
minh thị mối liên hệ giữa Giác Ngộ và vấn đề linh hồn. Không cần thắc mắc tại
sao Phật không dứt khoát giải quyết câu hỏi ngàn đời ấy, mà chỉ phớt tỉnh gạc
qua như không cần biết đến, và nói những gì hầu như không chút liên quan đến
vấn đề chánh. Đó là một trong những trường hợp buộc ta phải đi sâu vào chân
tướng của Vô Minh.
3. Ý chý trong công tác thẩm địng lại giá trị sống
Một trong những lý do Phật bỏ
lửng như vậy, không giải đáp, một số câu hỏi siêu hình là vì Phật giáo là một
hệ thống tu tập thực nghiệm chứ không phải là một bài giảng huyền học. Cố nhiên
Phật vẫn có riêng một nhận thức luận nào đó, nhưng đó là điều phụ thuộc, bởi lẽ
chủ đích của Phật Giáo là đạt ngộ ngõ hầu tâm chứng tự do. Ngộ tức phá mê, sự
mê vọng trụ ở đầu nguồn sinhtử, và gây đủ thứ ma chướng cho con người, về lý
cũng như về tình.
Tuy nhiên, sự mê vọng ấy không
thể tận trừ được bằng phương tiện nào khác hơn là hùng lực của ý chí; kỳ dư mọi
công phu khác, nhất là những phương tiện thuần trí thức, đều là phí công uổng
sức. Thế nên Phật mới cả quyết: “Những vấn đề ấy [22] không lợi lạc gì hết, không
liên hệ gì đến giáo pháp, không giúp thêm gì cho sự chánh mạng, mà cũng không
dứt được lòng tham dục, không đem lại sự yên tĩnh cho thân tâm, sự suốt thông
chân lý, trí huệ cao siêu và Niết Bàn. Vì cơ ấy ta chẳng nói ra”. Mặt khác, cái
mà Phật giảng dạy là “Đây là sự khổ, đây là nguồn gốc sự khổ, đây là sự diệt
khổ, đây là con đường diệt khổ”. Vì đó toàn là những vấn đề thực tiễn, không
những cần hiểu suốt hành sâu, mà còn phải chủ động điều khiển chúng nếu muốn
thành tâm cầu đại ngộ giải thoát.
Phật mạnh dạn chống lại kiến thức
hư tưởng, Phật luôn luôn nhắc nhở phải trực kiến, phải thân chứng giáo pháp, cụ
thể trước mắt, đó là điều hiển nhiên thấy khắp trong các bộ Nykayas cũng như
trong các bản văn Đại Thừa. Đích thực đó là điểm tâm yếu nhất trong giáo lý nhà
Phật. Kinh Tam Minh nói có một triết gia Bà La Môn tự phụ tinh thông ba bộ kinh
Phệ Đà và hướng dẫn đến sự cộng trú với Phạm Thiên, Phật mỉa mai ông ta trong
đoạn văn đanh thép như sau [nhân Phật đáp lời cho một thanh niên đến tham vấn
Phật về vấn đề cộngtrú ấy]:
“Như vậy anh nói các thầy Bà La
Môn không thấy không biết con đường đưa đến cộng trú với Phạm Thiên; rồi anh
lại nói rằng không một thầy Bà La Môn nào trong các thầy tinh thông ba bộ Phệ
Đà đã thấy được Phạm Thiên, không một đệ tử nào, không một tôn sư nào cho đến
bảy đời cao tổ, đã thấy được Phạm Thiên. Rồi anh còn nói rằng cả đến các bậc đại
tôn sư thời cổ mà các thầy Bà La Môn trọng vọng từng việc làm câu nói cũng
không hề tự phụ hoặc biết hoặc thấy Phạm Thiên ở đâu, từ đâu đến, và đi về đâu.
Ấy vậy mà các thầy Bà La Môn tinh thông ba bộ kinh Phệ Đà kia không biết không
thấy Phạm Thiên lại nói các thầy có thể hướng dẫn con đường đưa đến cộng trú
với Phạm Thiên. Quả đó là một đàn người mù đeo dính lưng nhau, người đầu không
thấy, người giữa không thấy, mà người cuối cùng không thấy nốt. Như vậy lời nói
những thầy Bà La Môn tinh thông ba bộ kinh Phệ Đà kia chỉ là lời nói của người
mù, không thấy gì hết: người đầu không thấy, người giữa không thấy, mà người
cuối cùng không thấy nốt”.
Vậy Giác Ngộ, hoặc là sự phá vọng
để hiểu chân, mà cũng tức là lý tưởng của sinh hoạt Phật giáo, sự Giác Ngộ ấy
thật quả tỏ rõ không thể là một hành vi của trí thức, mà chính là sự chuyển hóa
hoặc đúc kết lại toàn thể con người bằng phép tinh luyện một thứ trí năng căn
bản nhất sẵn đủ trong mỗi người chúng ta. Trí thức thuần tuý có cái gì hời hợt,
bàng quan, hầu như không thâm nhập được trong cuộc sống. Nếu Giác Ngộ, như kinh
điển dạy, có sức tác động ly kỳ như vậy trong thế giới nội tại của ta thì quyết
đó không thể là thành quả thâu lượm được bằng một kiến giải suông về lý Nhân
Quả.
Ngộ là ngộ bằng trí huệ, và trí
huệ phát ra từ ý chí - ý chí muốn tự tri tự giác, và tự hiện thực trong chính
nó. Do đó mà Phật luôn luôn nêu cao lý do khẩn thiết phải tự chứng, luôn luôn
nhấn mạnh đến sự trầm lặng tham thiền nhằm tạo cơ duyên chứng ngộ. Bằng tham
thiền, ý chí nỗ lực giữa cơn dấy động của ý thức [23] vượt qua những giới hạn
tự nó buộc vào, sự tham thiền ấy nhất định không thể chỉ là một nhận thức
thường bằng trí thức về Lý Nhân Quả hoặc Duyên Khởi hoạt động trong vòng lẩn
quẩn, khởi đầu ở Vô Minh và kết thúc ở Vô Minh. Đó mới thực là điều thiết yếu
nhất trong Phật Giáo, kỳ dư mọi vấn đề siêu hình khác toàn lôi cuốn ta vào thế
kẹt nan giải, chằng chịt như khối tơ vò.
Vậy Vô Minh không thể chiến thắng
được bằng bất cứ phương tiện siêu hình nào, mà chỉ bằng nỗ lực của ý chí. Được
vậy, ta còn giải trừ luôn bệnh ngã chấp, tức cái tôi, do Vô Minh tạo ra, hoặc
nói đúng hơn, là căn bản của Vô Minh, trên miếng đất ấy nó tùy thuộc và phát
triển. Cái tôi là một xó tối không một tia trí thức nào lọt vào được, là sào
huyệt cuối cùng dành choVô Minh làm chỗ núp an toàn trốn ánh sáng. Hễ sào huyệt
bị phá vỡ, bị xáo trộn, thì Vô Minh tan như giá băng gặp mặt trời.
Trên thực tế, cả hai, Vô Minh và
Ngã chấp, chỉ là một, chẳng phải hai, chẳng sai khác. Ta quen nghĩ rằng khi Vô
Minh bị đánh bạt, khi cái tôi hết siết chặt vào ta, thì ta mất hết chỗ dựa, và
sẽ buông trôi theo số kiếp, vật vờ như lá rụng phó mặc cho chiều gió. Nhưng sự thật
không phải vậy; vì Giác Ngộ phải đâu là một khái niệm tiêu cực chỉ vỏn vẹn có
nghĩa là bặt hết Vô Minh. Thật vậy, Vô Minh là phủ nhận Giác Ngộ, nhưng ngược
lại, Giác Ngộ không phủ nhận gì hết. Giác Ngộ là khẳng định, theo nghĩa chân
xác nhất của danh từ, nên Phật dạy rằng: “Thấy Pháp tức thấy Phật, thấy Phật
tức thấy Pháp” và Phật còn nói “nếu mượn sắc tướng âm thanh mà cầu Phật ắt không
thể thấy được Như Lai [24]”.
Khi Vô Minh còn chế ngự thì cái
tôi được coi là một khái niệm tích cực, và phủ nhận nó ắt rơi vào không tưởng
hư vô; nên rất tự nhiên Vô Minh yểm trợ cái tôi trong mọi cử động, vì ở cái tôi
nó vọng cầu được an trụ trong miếng đất “bản lai”. Nhưng khi ngộ rồi thì sự thế
đổi hẳn lại, và trật tự do cái tôi thiết lập lên hoàn toàn bị xáo trộn hết từ
dưới lên trên: cái tiêu cực giờ đây trở thành tích cực, và cái tích cực thành
tiêu cực. Tôi thiết tưởng những người học Phật không thể không biết đến sự tái
thẩm định những giá trị tinh thần ấy diễn ra song song với sự chứng đạo. Nên
khi Phật giáo xác định rằng Giác Ngộ là cứu cánh tối hậu của sinh hoạt Phật
giáo, đó không có gì là tiêu cực, là bi quan hết.
4. Cái tưởng và cái như thực
Thường, triết học hay công kênh
đề cao quá đáng giá trị của tư duy trừu tượng và những luận giải thuần lý mà
quên mất thế giới thực tế của kinh nghiệm cần tiếp xúc luôn luôn, còn Phật, như
tôi từng nhắc lại, dứt khoát không nhận hi sinh kỉ luật tu chứng thực tiễn cho
những lý thuyết không tưởng. Giác Ngộ là kết quả của công phu tu chứng ấy, vì
không phương tiện nào khác đả phá được Vô Minh. Nếu cho rằng Phật có một hệ
thống tư tưởng nào đó chỉ đạo toàn thể đường lối giáo hóa của Ngài, hệ thống ấy
có thể gọi là triệt để duy nghiệm luận. Ðó là tôi muốn nói rằng cuộc sống và
thế gian thế nào thì Phật thấy y thế ấy, không dụng tâm diễn dịch chúng theo ý
riêng.
Các lý thuyết gia có thể cho đó
là vô lý, viện lẽ rằng ta không thể không ghép liền cái chủ quan của ta vào mỗi
hành vi nhận thức, và cái ta gọi là thế giới khách quan chẳng qua chỉ là một sự
tái tạo hư giả của tâm tưởng cố hữu của ta. Quả đúng vậy trên mặt nhận thức
luận, nhưng về đạo giáo thì tự do tuyệt đối chỉ đạt được khi mọi tư tưởng chấp
ngã hết xen vào cuộc sống, và thế gian được nhận thức đúng như thực cũng như
tấm gương thấy sao chiếu vậy, “hoa qua chiếu hoa, nguyệt qua chiếu nguyệt”. Nên
khi tôi nói Phật giáo là một triệt để duy nghiệm luận là nói về tâm, đừng hiểu
theo nghĩa nhận thức luận. Và đó đúng là nghĩa của thành ngữ “yatha-bhutam”
hoặc “yathatatham” thấy biết như thực rất thông dụng trong kinh điển Phật Giáo,
và đó là một phiên khúc căn bản của tư tưởng Phật giáo.
Trong kinh Sa Môn Quả thuộc
Trường Bộ Kinh, Phật cho biết, càng lên càng cao, thế nào là quả vị cùng tột
của đời sống đạo, và con đường đi lên ấy rút lại như sau trong ý nghĩa
“yathabhutam” về thế gian.
Với cái tâm an định, trong sạch, linh
mẫn, điều chế, xả hết nghiệp ác, nhu thuận, tùy ứng, kiên cố, không nao núng, thầy
tỳ khưu phát tâm diệt trừ phiền não. Thầy biết đúng như thực: “Ðây là cái khổ”.
Thầy biết đúng như thực: “Ðây là nguyên nhân cái khổ”. Thầy biết đúng như thực:
“Ðây là con đường diệt trừ cái khổ”. Thầy biết đúng như thực: “Ðây là phiền
não”. Thầy biết đúng như thực: “Ðây là nguyên nhân của phiền não”. Thầy biết
đúng như thực: “Ðây là sự diệt trừ phiền não”. Thầy biết đúng như thực: “Ðây là
con đường diệt trừ phiền não”. Biết như vậy, thấy như vậy, tâm thầy được giải
thoát các phiền não lậu hoặc của dục ái [kama ]
của hữu ái [bhava] của vô minh [avijja] và được trí huệ giải thoát. Thầy tỳ khưu
biết: “Nghiệp tái sinh đã xả trừ, phạm hạnh đã vẽ tròn, việc gì phải làm nay đã
làm xong, sau kiếp này không còn thọ thân nào khác”.
Ta hiểu thế nào? Khác nào như trường
hợp Mười Hai Nhân Duyên, chắc chắn Bốn Thánh Ðế không trao hết huyền nghĩa nếu
ta đi đến với nó bằng trí thức, vì thật ra đó chẳng qua chỉ là giáo điều nhân
quả trùng tuyên lại; và dù khác hình thức, một nguyên lý như nhau được chứng
thực cả trong thuyết Duyên Khởi và trong Thánh Ðế. Thánh Ðế chỉ con đường thực
tập thoát ly nghiệp chướng trong khi thuyết Duyên Khởi vạch ra những mưu lược
hoành hành của nghiệp chướng. Trên mặt khái niệm, cả hai công thức vẫn không gì
hơn là công thức, nghĩa là không đủ hiệu năng và động lực dấy lên một cuộc cách
mạng nội tâm.
Phật tuyên Bốn Thánh Ðế là cốt để
được thực hành nhằm chứng đến một lý tưởng. Kỷ luật tu chứng trình bày tỉ mỉ
trong phần trước của bộ kinh Sa Môn Quả chỉ chuẩn bị cơ duyên cho biến cố cuối
cùng ấy. Hễ tâm không được bình thản, thanh tịnh và kiên quyết, chắc chắn không
bao giờ ta nắm được chân lý đúng như thực. Một trí óc mẫn nhuệ, tinh thâm có
thể biết giỏi luận hay về chân lý, nhưng muốn hiện thực chân lý trong đời thì
điều tâm là việc thiết yếu.
Ðoạn kinh dẫn trên chỉ có thể
lãnh hội được bằng ánh sáng của sinh hoạt nội tâm. Ðành rằng giáo lý nhà Phật
vẫn có thể hợp lý luận thật đấy, nhưng nếu ta chỉ thấy có thế thôi ắt làm biến
chất nó một cách tai hại. Trong Phật giáo, phần hợp lý chỉ là một khía cạnh, và
là một khía cạnh không mấytrọng yếu. Hơn nữa, ta còn có thể coi phần lý giải ấy
như một cơ sự ngẫu nhiên, nên dùng lý mà vào đạo Phật ắt hoàn toàn không hiểu
gì hết chân tinh thần của Phật giáo. “Thầy tỳ khưu thấy biết đúng như thực”, -
ti yathabhutampajanati - chính đó là chỗ ta phải chứng vào; vì yathabhutamnana
dassana – cái thấy và biết như thực là cái thấy biết chiếu phá phiền não lậu
hoặc [asavanamkhaya nana] mở đường cho tâm giải thoát [cetovimutti].
Thiếu cái trí ấy, hoặc cái tri
kiến ấy, thì không thể có thoát ly hoặc tự do nào hết ở người Phật tử, mà cũng
không bao giờ bảo đảm, được rốt ráo giải thoát những ràng buộc của kiếp sống
cũng như sự chứng đến một cuộc sống cao hơn, tức là Phạm hạnh [brahmacarya]. Nói
“biết như thực, thấy như thực” không có nghĩa là biết thấy bằng trí thức những
sự kiện hoặc chân lý nằm ngoài giới hạn kinh nghiệm của ta, mà chính là biết
thấy những cơ sự hiển nhiên diễn ra trong chính ta. Không thể có sự hiểu bằng
trí khi không có sự chứng bằng tâm yểm trợ hiệu lực cho trí. Với những người
chưa bao giờ luyện qua phép thiền Ấn Độ, cảnh giới tối cao do tâm chứng đến
trong khi tịnh quán thế gian như thực hẳn là một câu chuyện rất khó tán đồng. Tuy
nhiên chỉ trong ánh sáng ấy mới thấu đạt được lời Phật giảng về quả vị tu chứng
của hạnh Sa Môn.
Có ba hoặc bốn thứ cảm nhiễm [asava],
hoặc gọi là lậu như các dịch giả Trung Hoa, ấy là dục lậu [kama ]
hữu lậu [bhava] vô minh lậu [avijja] và kiến chấp [ditthi]. Cái thấy chiếu phá
tất cả lậu hoặc ấy là cái thấy gì? và sau khi diệt trừ hết thì còn gì lại ở ta?
Câu trả lời có thể phỏng đoán ngay là chỉ còn lại cái tuyệt diệt hư vô, vì chắc
rằng ngoài cái “ngoan không” ra một cuộc tuyệt diệt như vậy không thể đưa đến
cái gì khác. Nhất là với bài kệ sau đây [trong bộ SuttaNipata, 949 và 1099] ta
càng có thêm lý do coi lời dạy của Phật như một thứ giáo lý hoàn toàn tiêu cực:
Cái ở trước mặt, người gạc qua bên
Đừng giữ gì ở sau lưng hết
Mà cũng chứ níu chặt cái ở giữa
Hãy tinh tiến trong cô tịch [25]
Tuy nhiên, về tâm đạo, sự thực là
có loại trừ hết phiền não lậu hoặc, có buông bỏ hết hình thức chấp trước, thì
nội thể mới được gạn lọc, và mới tự biết được “như thực” nghĩa là không thấy có
một cái ngã tự xác định như đối lập với cái phi ngã, nhưng thấy cái đồng nhất
siêu việt lên tất cả đối thể, mà tự thân vẫn dung thông tất cả đối thể [26]. Cái
bị hủy diệt là cái thế mâu thuẫn của sự vật, chứ không phải tự thể của sự vật. Và
giải thoát có nghĩa là trở về chỗ ban sơ. Như vậy cái thấy của đạo nhãn là thấy
cái một trong cái nhiều, là thấu rõ rằng hai tư tưởng nghịch đảo nhau không có
nghĩa là tương sinh tương thuộc nhau, mà chính cả hai đều bình đẳng như nhau
ứng hóa từ một nguyên lý duy nhất; và chính đó là xứ sở của tự do tuyệt đối. [27]
Tâm có điêu luyện đến mức đó mới
thấy cả khẳng định [atta] và phủ định [niratta] đều không áp dụng được cho thực
tại, vì cái thực là cái thấy biết sự vật đúng “như thực”, hoặc nói đúng hơn, đúng
như cái thế duyên khởi của chúng. Một tinh thần hoàn toàn thành khẩn và tinh
khiết là điều kiện tiên quyết để thấy biết thực tại trong bản thể “như thế là
như thế”. Và kết quả chứng đến là ti yathabhutampajanati, cái mà các nhà Đại
Thừa giáo diễn lại sau này trong giáo lý “chân như” bhuta tathata. Tinh luyện
qua bốn phép thiền dạy trong bộ Nikayas, tâm chuyển thành tấm gương của trí
năng [adarsa jnanam] theo các nhà Đại Thừa giáo, và tương đương với chân trí [bhuta
nana] của Tăng Nhất Bộ Kinh. Lời thí dụ cuối cùng sau đây Phật giảng về hành
quả xuất gia tóm lược sự tâm chứng của người Phật tử nhân đó trở thành sáng tỏ
như ban ngày. Phật thí dụ:
"Cũng như vậy đó, thưa Đại
Vương, ví như trong một thành lũy trên núi có một ao nước trong sạch, và lắng
đứng, người đứng trên bờ nhìn xuống nước thấy sò và ốc, cát đá sỏi, và bầy cá
tung tăng bơi lội nằm im; người ấy tự nhiên biết: Ao này nước trong, sạch, và
lắng đứng, và trong ao có sò và ốc, cát và sỏi, và bầy cá tung tăng bơi lội
hoặc nằm im."
[Kinh Sa Môn Quả]
Ở đây, tánh cách triệt để duy
nghiệm của giáo lý như thực - yathabhutam được Phật mô tả bằng hình ảnh khiến
ta liên tưởng đến hình ảnh của Phật trong bộ Itivuttaka [Tạp bộ Kinh V. 109]
dưới hình thức một khán giả đứng trên bờ cakkhuma puriso tire thilo. Dùng trí
óc hiểu thí dụ ấy là hoàn toàn phi lý. Người viết mô tả tâm trạng của họ từ một
bình diện tư tưởng cao hơn thói thường chứng đến sau bao năm tinh luyện.
Tam bồ đề [sambodhi] hoặc Giác
Ngộ là thuật ngữ Phật giáo dành cho sự chứng ấy. Diệt trừ bốn phiền não lậu
hoặc là giai đoạn tiêu cực của chứng nghiệm, và đó tức là cái thấy bên trong mà
tâm thanh tịnh và linh minh của Phật y hướng đến. Nếu chỉ xét riêng về hành
động đả phá, thì Giác Ngộ quả có chối bỏ và hủy bỏ tất cả, nhưng một khi cái thấy
ấy khai hiển cái như thực của chân lý thì Giác Ngộ là khẳng định một cách quyết
liệt nhất. Nên đó mới gọi là “thắng địa không sở đắc không sở chí, tức là Niết
Bàn, tức là sự hủy diệt cái già và cái chết” [28]. Ta nên ghi nhận cái bị hủy
diệt ở đây là cái già và cái chết, chứ không phải cái sống; vì chính xuyên qua
Giác Ngộ cái sống ấy, lần đầu tiên, khắc phục lại tinh tần tự do và tinh lực
sáng tạo nguyên thỉ.
Song le, lời Phật ví với tấm
gương [adarsa] có thể gợi lên thái độ của Phật đối với thế gian là hoàn toàn
thụ động, thiếu hứng khởi. Tuy nhiên, lời công kích ấy tỏ rõ người ta không
biết gì hết về cuộc sống của đức Phật đã quên mình hiến trọn suốt bốn mươi chín
năm yên tịnh cho công cuộc khởi động niềm an vui tinh thần chung cho đồng bào;
chẳng những thế, lời công kích còn quên mất công trình hoằng pháp phi thường
của các môn đồ của Phật, cũng như những hoạt động tinh thần họ đã nỗ lực khai
triển trường phái Phật giáo Đại Thừa. Hơn nữa, cả khi xét riêng Phật giáo tách
ngoài tất cả sự kiện lịch sử tạo nên nó, lời tố cáo tiêu cực gán cho
weltanschauung Phật giáo vẫn sai lầm.
Cái tiêu cực ta ghi nhận trong
Giác Ngộ chỉ là cái mường tượng bề ngoài. Phàm lệ, một vật tuyệt đối tiêu cực
là cái không thể quan niệm được, trừ phi đó là một trạng thái không có gì hết, không
chứa gì hết ở bên trong. Hễ Giác Ngộ còn là chỗ chứng đến của tất cả nỗ lực
tinh thần cao độ nhất thì đó là một trạng thái tích cực nhất của tâm linh trong
đó chứa cả một kho tàng tiềm năng vô tận. Đó là cái một bao hàm vô lượng vô
biên cái nhiều. “Suối con chảy mạnh, biển cả lắng im”. [29] Trong biển Đại Giác
là sự im lặng của cái một ấy. Các pháp sư Hoa Nghiêm còn ví đó như một thế
chuyển dậy trùng trùng của một biển cả vắng lặng và trong suốt phản chiếu tất
cả thiên thể sáng ngời, mà đồng thời vẫn không một đợt sóng gào thét và phá
phách nào là không y nhiên nằm im trong lòng biển cả.
Trong kinh Mahale [Mahali Sutta]
Phật hỏi như vầy:
"Khi Thầy tỳ khưu biết như
vậy, thấy như vậy, thầy có thể nào còn đặt câu hỏi: “Hồn có phải là một với xác,
hay hồn là hồn, xác là xác, khác biệt nhau?”.
Đó, thật quá rõ ràng lời Phật dạy
luôn luôn thực tiễn qui hướng vào sự thành tựu lý Giác Ngộ, được coi là cái
thấy biết cụ thể đả phá tất cả phiền não lậu hoặc và xả trừ tất cả hình thức
chấp thủ [upadana]. [30] Ngài tránh những cuộc tranh biện siêu hình, vì nó
không đưa đến cứu cánh tối hậu của đời sống đạo, tức là thanh lọc tâm tưởng chứ
không phải phô diễn những tuyệt kỷ tinh luyện về thuật nhận thức. Vô Minh cần
được bạt trừ bằng tâm, trong nội chứng, chứ không phải bằng trí trong sự hiểu
biết nguyên tắc nhân quả giảng dạy trong giáo lý Duyên Khởi hoặc Thánh Đế.
Ngoài ra, Giác Ngộ là cốt ở cái
thấy sự vật yathabhutam hoặc yathatatham đúng như thực không vướng ngờ vực, không
kẹt kiến thức hoặc kiến chấp, điều ấy ta còn nhận thấy ở bài kệ chót trong bộ
Itivuttaka ca tụng đức tướng của Phật. Tôi xin trích dẫn ba đoạn đầu:
Kiến chiếu vào toàn thể thế gian
Và toàn thể thế gian hiện ra như thực
Người thoát ly toàn thể thế gian
Và không gì sánh được. Người trong toàn thể thế gian
Vượt lên tất cả trong muôn vật, kiên cố,
Cởi mở tất cả buộc ràng
Nơi an nghỉ cao nhất thuộc về Người
Chứng vào Niết Bàn, tự tại không sợ hãi
Bậc Đại Giác ấy, phiền não xả trừ
Không gì lay chuyển, không chút bợn ngờ
Thoát ly ngoài vòng nghiệp chướng
Và giải thoát tận căn Vô Minh diệt.
5. Dhyana và chiếc bè pháp
Cái thấy sự vật đúng như thực đại
khái có thể nói là một khía cạnh trí thức hoặc tâm linh của Giác Ngộ, song chứ
hiểu theo tinh thần tự biện. Còn một khía cạnh khác giờ đây ta thử xét qua: tôi
muốn nói mối liên hệ giữa Giác và định [samadhi] hoặc thiền [dhyana]. Cái sau, như
tôi đã trình bày trước, là trạng thái dự bị cho sự tựu ngộ, tuy nhiên, tựu ngộ
phải đâu chỉ đơn giản là kiến chiếu vào thực tại.
Thật vậy, nếu Giác Ngộ chỉ vỏn
vẹn là cái thấy ấy, hoặc cái chiếu diệu ấy, ắt không soi sáng được nội tâm đến
độ khử diệt được tất cả dục vọng và chứng đến tự do tự tại. Vì trực giác không
sao đi sâu được vào đầu mạch sống, không trấn an được ngờ vực, không đoạn tuyệt
được tất cả triền phược chấp trước, trừ phi ý thức được chuẩn bị chu đáo để
nhận lấy cái Tất cả trong hình tướng toàn diện cũng như trong thể tánh “như
thị”. Giác quan và ý thức thường tục của ta qua dễ bị khuấy động và lệch xa con
đường hiện thực chân lý. Nên kỷ luật tu tập trở thành cần thiết.
Ta nên nhớ đức Phật đã nhận lấy
kỷ luật ấy dưới sự hướng dẫn của hai đạo sư thuộc phái số luận, và cả sau ngày
thành đạo Ngài vẫn đặt sự tham thiền ấy làm phép thực tập cho môn đồ. Chính
Ngài, khi thuận tiện, cũng thường lánh mình vào nơi cô tịch. Chắc rằng đó không
phải Ngài buông thả trong thú trầm tư hoặc sa đà theo ngoại cảnh phản chiếu
trong gương tâm của Ngài. Đó chính là một phép luyện tâm, cả đến đối với Ngài, và
cả đến sau khi Ngài đã thành đạo.
Ở phương diện này, Phật chỉ giản
dị làm theo phép tu luyện của các bậc hiền triết và đạo sư Ấn Độ khác. Có khác
là Ngài không có đó là đủ. Ngài còn thấy ở kỷ luật tu tập một ý nghĩa thâm diệu
hơn, là cốt đánh thức dậy một ý thức tâm linh siêu tuyệt nhất để hiểu Pháp. Chắc
chắn thiếu sự thức tỉnh rốt ráo ấy thì hành thiền, dù tinh tiến đến đâu, vẫn
thiếu hiệu lực viên thành cuộc sống đạo. Nên kinh Pháp Cú nói:
Vô Thiền bất trí
Vô Trí bất thiền
Đạo tòng thiền trí
Đắc chí nê hoàn
[đoạn 372]
Không thiền chẳng có trí
Không trí chẳng có thiền
Đạo do thiền và trí
Chứng đến cảnh Niết Bàn.
Sự hỗ tương liên hệ giữa thiền và
trí là điểm đặc trưng của Phật giáo khác với các giáo phái Ấn Độ đương thời. Thiền
phải đưa đến trí, phải mở cái thấy biết như thực, vì không có Phật giáo trong
sự trầm tư mặc tưởng suông. Và đó là lý do Phật bất mãn giáo lý của các vị đạo
sư ban đầu của Ngài, cái học ấy, theo lời Phật nói, “không đưa đến thắng trí, giác
ngộ và Niết Bàn”. [31] Trụ êm trong hư vô kể cũng thích, nhưng thế là vùi say
trong giấc ngủ, mà Phật thì không khứng hoang phí cuộc đời trên thế gian này
cho mộng tưởng. Ngài phải quán chiếu vào cuộc sống, và vào chân tướng của vạn
vật.
Theo Ngài, Prajna - trí bát nhã -
là phần chủ yếu của đạo lý, trí ấy phải phát ra từ dhyana thiền; thiền không
kết thành trí quyết chẳng phải là của Phật pháp. Đằng rằng Bát nhã phải là
“chiếc thuyền không”, nhưng ngồi im trong “không thất” [sunnagaram] không làm
gì hết, là bị "không chướng", là mai một; một con mắt phải mở ra, và
kiến chiếu vào thực tại, cái thực tại có tên là paramam ariyasaccam [32] giải
trừ tất cả triền phược và chướng ngại cho cuộc sống [Trung Bộ Kinh, 140]. Nên
kinh Pháp Cú ca tụng thầy tỳ khưu “đi vào nhà trống, tâm ý thanh tịnh, hưởng
một niềm vui khác thường hơn khi thầy một lòng tinh tiến quán xét chân lý”:
Đương học nhập không
Tịnh cư chỉ ý
Lạc độc bình xứ
Nhất tâm quán pháp
[bài kệ 373]
Vậy, vì lẽ mục đích của Thiền là
tạo cơ duyên để tâm chứng vào cái parama sacca có công lực phá trừ và giải
thoát, và vì lẽ chân lý thù thắng ấy chỉ có thể chứng được nhân khởi lên cái
parama prajna, tức cái trí huệ thù thắng chấm dứt tất cả khổ đau - sabba dukkha
- nên Phật không hề quên in sâu vào tâm thức môn đồ ghi nhớ yếu tố trí huệ bát
nhã, chẳng hạn như kỷ luật chung sau đây Phật vạch ra dưới danh từ tam học:
giới [luân lý] định [quán tưởng] và huệ [trực giác].
Dù phép tham thiền có thể đem đến
những hoan lạc siêu thể chất nào, Phật coi những niềm vui ấy không thể sánh vào
đâu được với cái vui rốt ráo chứng đạo: nên cần xả bỏ chúng, tất cả, kẻo vướng
mắc và bị chướng ngại trên đường cầu huệ giác. Chỉ bằng huệ giác ấy mới chứng
tâm giải thoát, hoặc phản bản hoàn nguyên. Giải thoát, Phật muốn nói là thoát
ly tất cả hình thức chấp trước, cả về thể chất [sắc: rupam] và tinh thần [thức:
vinnanam]. Nên trong Trung Bộ Kinh, 138, Phật nói:
“Đừng để tâm ngươi dao động bởi
vật bên ngoài, mà cũng đừng sa đà giữa những tưởng niệm bên trong. Hãy lìa tất
cả chấp trước, tất cả sợ sệt. Đó là con đường vượt qua cái khổ sống chết. ”
Hễ còn chấp trước, dù một mảy may,
dù ở đâu, trong hoặc ngoài, thì cái tôi còn nguyên gốc, và chắc chắn còn tạo
nghiệp lực mới, và lôi cuốn chúng ta vào vòng sinh tử luân hồi không biết đâu
là cùng. Chấp là một hình thức ám ảnh hoặc ảo ảnh hoặc tưởng tượng. Bộ Nikayas
ghi lại chín thứ trong số những ảo ảnh về ngã chấp, toàn do vọng tưởng tạo ra, và
tự nhiên đưa đến chấp trước bằng mọi cách.
Đó là những tưởng niệm này: “tôi
có, tôi là cái ấy, tôi sẽ hiện hữu, tôi sẽ không hiện hữu, tôi sẽ hữu sắc, tôi
sẽ vô sắc, tôi sẽ hữu tưởng, tôi sẽ vô tưởng, tôi sẽ không hữu tưởng không vô
tưởng.” Ta phải vứt bỏ tất cả vọng tưởng ấy, những khái niệm ngã chấp ngã mạn
ấy, để chứng đến cứu cánh tối hậu của đời sống đạo. Hễ xả trừ được thì ta hết
chuốt sầu đeo hận, hết bạc đãi người và vướng phải lo sợ, tức được an tâm, chứng
Niết Bàn, và chứng vào thực tế và thực tại của muôn vật. Một khi “huệ” phát lên
thì “giới” cũng bỏ luôn, “định” cũng rời mất, chỉ còn lại một trạng thái tỉnh
táo của tâm thức trong ấy chỉ có tùy cảm mà ứng dụng.
Không gì hiểu mình cụ thể hơn
giáo lý xả chấp của Phật bằng thí dụ thông thường về “chiếc bè”, có lẽ hơi khó
hiểu đối với đôi học giả quen sống trong không khí trí thức đối nghịch khác. Cũng
như một chiếc bè, tất cả “pháp” còn phải xả, huống nữa là “phi pháp” [33], đó là
phiên khúc căn bản chạy dài suốt bộ sử diễn tiến của giáo lý Phật giáo. Triết
giáo Bát Nhã, mà đôi người coi như hoàn toàn thiếu chân truyền đối với tinh
thần Phật giáo nguyên thỉ, cũng không nhượng trường phái nào trong công cuộc xả
chấp, như trong kinh Kim Cương chẳng hạn. Thật vậy, cái “không” của các bộ kinh
Bát Nhã chẳng gì khác hơn là bài triết luận về giáo lý xả chấp. [34] Kinh Kim
Cương nói như vầy:
“Như lai thường dạy rằng các thầy
tỳ khưu nên biết pháp ta nói ra ví như chiếc bè đưa qua sông: pháp còn nên bỏ
huống nữa chẳng phải là pháp. ”
Thí dụ ấy, Trung Bộ Kinh giảng
rộng như sau:
“Này các thầy tỳ khưu, lời ta dạy
ví như chiếc bè, để đưa qua, không phải để mang giữ. Hãy nghe nhớ kỹ lời ta đây.
Ví như có người suốt ngày đi đường nhọc mệt gặp phải một con sông rộng nước
sâu; bờ sông bên này đây lo sợ và hiểm nghèo, còn bờ bên kia thì yên ổn, không
sợ sệt, nhưng không có ghe thuyền đưa qua sông, mà cũng không có cầu bắt nối
hai bờ.
Ví như người ấy nghĩ bụng như
vậy: Quả thật sông thì rộng nước thì sâu, bờ bên này đây lo sợ và hiểm nghèo, còn
bờ bên kia thì yên ổn không sợ sệt; nhưng không có thuyền mà cũng không có cầu
đưa ta qua bờ bên kia. Sao ta không thử lượm lặt những lau sậy, những que cành
chà lá kết lại làm bè coi sao? Rồi ngồi trên bè, ta dùng tay dùng chân làm chèo,
chèo êm qua bờ bên kia.
Theo đó, này các tỳ khưu, ví như
người ấy lượm lặt những lau sậy, những que cành chà lá, kết lại làm bè, rồi
dùng tay dùng chân làm chèo, chèo êm qua bờ bên kia. Bấy giờ, sông qua rồi, bờ
đến rồi, ví như người ấy nói vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc lớn.
Nhờ nó chở tôi, và tôi dùng làm tay dùng chân làm chèo, tôi mới qua êm được đến
bờ bên kia; bây giờ phỏng như tôi đội chiếc bè trên đầu hoặc mang nó trên vai, và
cứ thế mà lên đường đi đâu tùy thích? Các thầy tỳ khưu nghĩ sao? Người ấy dùng
bè như vậy có khôn ngoan không?"
"Bạch Ngài, nhất định là
không. "
"Vậy, nếu là người khôn
ngoan, người ấy phải xử trí làm sao với chiếc bè? Này các tỳ khưu, người ấy nên
nghĩ như vầy: Quả thật chiếc bè ấy đã giúp tôi nên việc. Nhờ ngồi trên bè, và
chèo bằng tay chân, tôi qua êm được bờ bên kia. Giờ đây, nếu tôi bỏ lại chiếc
bè ấy bên bờ, hoặc vứt mặc nó chìm xuống nước, và tôi lại tiếp tục lên đường?
Các thầy tỳ khưu, nếu làm như vậy, người ấy đáng là người khôn ngoan khéo xử
trí với chiếc bè.
Cũng như vậy đó, các thầy tỳ khưu,
giáo pháp tôi dạy các thầy ví như chiếc bè, cốt để đưa qua không phải để mang
giữ. Thấu rõ ví dụ ấy, thì đối với pháp, các thầy còn phải xả thay huống nữa là
cái phi pháp". [35]
Vậy, lời dạy của Phật có thể tóm
lại như sau: Thấy muôn vật đúng như thực cũng tức là chứng đến sự tự do tuyệt
đối: hoặc nói khác hơn, khi ta xả trừ tất cả dục vọng tai hại xây dựng lên từ
vọng tưởng chấp ngã, và tâm chứng giải thoát, đó là lần đầu tiên ta thức tỉnh
trên thực tại đúng như “tự nó là như thế”. Cả hai sự kiện, thấy biết và tự do, vốn
mật thiết liên hệ nhau, có cái này không có cái kia là việc không thể nghĩ, không
thể có được; trên thực tế, đó là hai phương diện của một thực nghiệm đồng nhất,
và chỉ bị tách đôi trong phạm vi kiến thức hữu hạn của ta. Trí không thiền
chẳng phải trí, thiền không trí chẳng phải thiền. Giác Ngộ là danh từ chỉ sự
đồng nhất thực nghiệm của trí huệ và thiền định của cái thấy biết như thực, của
sự xả bỏ chiếc bè pháp, dưới bất cứ tên gọi nào. Chính đó là ánh sáng cần phải
có để thấu rõ đọan kinh sau đây:
Bởi vậy, các thầy tỳ khưu ơi, dù
là sắc chất nào [rupam: vật chất hoặc thể xác] dù ở quá khứ, vị lai hay hiện
tại, dù ở trong hay ở ngoài, dù thô hay tinh, dù tiện hay quí, xa hay gần, sắc
nào cũng phải quán thấy đúng như thực trong ánh sáng của chính trí, nghĩa là
quán thấy như vầy:
“Cái này không phải là của tôi,
Tôi không phải là cái này,
Cái này không phải là tự ngã của
tôi. ”
Bốn uẩn [khanda] còn lại là thọ [vedana:
cảm giác] tưởng [sanna: khái niệm] hành [sankhara: căn bản tạo tác] và thức [vinnanam:
ý thức] cũng như vậy đó. Người nào quán thấy thế gian như vậy thì lìa thế gian,
và như thế là thoát ly tất cả dục vọng tai hại, chứng đến tự do. Đó là người
chướng ngại gạt bỏ xong, hào lũy lấp cạn hết, là người đã bạt trừ, đã tự do, đã
hoàn tất cuộc chiến, đã trút bỏ gánh nặng, đã giải thoát. [36]
Nói tóm lại, người ấy có tất cả
đức tính của bậc Đại Giác, đức tánh thành tựu trong sự phối hợp nhịp nhàng giữa
ý chí và trí thức.
6. Trở về nhà cũ
Vô Minh là bỏ nhà ra đi, và Giác
Ngộ là trở về. Suốt thời gian phiêu bạt, ta nếm đủ mùi khổ đau cay đắng, nên
cõi trần ta sống đây chắc không có gì đáng thèm khát quá vậy. Tuy nhiên, Giác
Ngộ đến là chấm dứt tất cả, tưởng như một lần nữa ta trở về ngồi yên trong nhà
ta, ở đó bản lai là tự do và yên tịnh. Ý chí tự phủ nhận nó trong dụng công
quán chiếu vào nội thể nó, thành thử có mâu thuẫn. Tâm thức không vượt nổi
ngoài giới hạn do bản thể nó đặt ra. Ý chí cố chiến đấu và đâm chán việc nó làm.
“Tại sao?” Tâm thức ướm hỏi, nhưng đó là câu hỏi không một tâm thức thế gian
nào mong đáp được, vì đó là điều bí mật gắn liền vào bản thể của ý chí.
Tại sao cha chúng ta ở trên trời
phải sai đứa con duy nhất xuống chuộc tội cho loài người do chính bàn tay Ngài
sáng tạo ra, nhưng càng ngày càng lạc mất quê hương? Tại sao Christ phải ngã
lòng đến vậy cho số kiếp những đứa con hoang của Chúa? Đó là một bí mật ngàn
đời, không một sự hiểu biết tương đối nào giải đáp được những câu hỏi ấy. Nhưng
vì lẽ những câu hỏi như vậy luôn luôn được nêu lên, luôn luôn quấy động tâm hồn
yên vui của ta, điều ấy đủ chứng tỏ đó không phải là những vấn đề không tưởng
dành cho các triết gia chuyên nghiệp giải quyết, mà đích thực chúng đập thẳng
vào mỗi người chúng ta, vào tận đáy hồn ta, khiến ta phải chiến đấu và nỗ lực
chế ngự chúng bằng một năng khiếu nội tại thâm diệu hơn, thâm diệu gấp bội hơn
thứ trí thức suy luận thường.
Câu chuyện đứa con hoang [37] là
một đề tài quen thuộc của người Phật giáo cũng như Công giáo. Ta há chẳng thấy
bộc lộ ở đó một cái gì đời đời chân thực, dù bi đát và u huyền, một cái gì nằm
sâu trong đáy tim mỗi người chúng ta? Dù sao rốt cùng ý chí cũng thành tựu
trong việc tự tri tự giác, và trở về ngôi nhà cũ. Niềm yên vui trong Giác Ngộ
đích thục là niềm yên vui của một đứa con hoang yên ổn trở về nhà.
Thế ra, trên lý luận, cuộc phiêu
lưu ấy tuyệt không ích lợi gì hết sao? Phải, cần gì phải tự đánh mất đi để rồi
tự tìm lại? Cần gì phải khởi hành từ số một để đến mười để rồi rốt cuộc từ mười
trở về một? Về mặt toán học, quả không có gì phi lý hơn. Tuy nhiên, chính đó là
chỗ huyền bí của đạo giáo, vì trở về không phải giản dị chỉ có nghĩa là đếm
ngược lại vẫn bấy nhiêu con số ấy. Đó là chỗ muôn trùng khác biệt giữa vật lý
và tâm lý. Một khi về rồi, con người không như trước nữa. Ý chí trở về sau bao
thuở phiêu bạt qua tâm thức thời gian, ý chí ấy chính là Chúa vậy.
Trong kinh Kim Cương Định, bồ tát
Bất Trụ hỏi Phật tại sao người cha đang tâm đến vậy, để đến năm mươi năm mới
gọi đứa con đi hoang trở về, Phật đáp:
“Đừng hiểu năm mươi năm ấy như
một khoảng thời gian; đó chỉ có nghĩa là sự mống dậy của một tư tưởng [38]”
Theo thiển ý, ta có thể hiểu đó
là sự mống dậy của tâm thức, một sự phân tâm vậy diễn ra trong ý chí phân hóa làm
hai, có người làm và người biết. Nhưng người biết ngày càng nhô lên thành khán
giả đứng lên phê phán, và toan làm chủ nữa. Bi kịch của thế gian phát sinh từ
đó, tấn bi kịch “khổ” mà Phật đặt làm cơ sở cho Bốn Diệu Đế. Cái khổ ấy chính
là cuộc sống của hầu hết chúng ta trong thế gian này; thực tế là cái khổ ấy vậy,
phô trần tất cả, không quanh co. Tất cả đều do Vô Minh mà ra, do tâm thức ta
không tự sáng tỏ được bản thể, sứ mạng và công dụng của nó đối với ý chí. Tâm
thức trước hết phải trở về với ý chí, và chỉ lúc ấy tâm thức mới thành tựu
những “bản nguyện” theo ý muốn của đấng chân sư. “Nhất niệm khởi” đánh dấu khởi
điểm của Vô Minh, và là điều kiện phát khởi của Vô Minh. Hễ chế phục được thì
nhất niệm trở về ý chí, và đó tức là Giác Ngộ. Nên Ngộ tức trở về vậy.
Ở khía cạnh ấy, Công Giáo giàu
tinh thần tượng trưng hơn Phật Giáo. Các câu chuyện sáng thế, sa đọa ở vườn địa
đàng, chúa sai Christ xuống chuộc tội tổ tông, Christ lên cây thánh giá và sống
lại, đó là tượng trưng. Nói rõ hơn, sáng thế là sự mống dậy của tâm thức hoặc
“nhất niệm khởi”; sa đọa là tâm thức lạc mất con đường bản lai; Chúa sai con
xuống trần là ý chí muốn tự kiến chiếu bằng một tri năng hậu đắc là tâm thức;
Chúa bị đóng đinh là hành vi siêu lên mâu thuẫn của trí và hành phát hiện từ sự
mống dậy của ý thức; và cuối cùng Chúa sống dậy có nghĩa là ý chí chiến thắng ý
thức, nói khác đi là ý chí tự quán chiếu trong tâm thức và qua tâm thức.
Sau khi sống dậy, ý chí hết dụng
công vô lối mà ý thức cũng thôi vừa hát vừa nghe hát. Trong cuộc sống đạo, hai
tác dụng ấy, thấy và làm, không sai khác nhau, và tổng hợp trong cái toàn nhất
của sinh hoạt nội tâm; thể tổng hợp ấy, người Phật giáo gọi là Ngộ, là xả trừ
Vô Minh, là đả trá triền phược, là hủy diệt phiền não lậu hoặc, v. v. . . Thế
là siêu lên phạm trù thời gian, Phật giáo không kẹt trong tinh thần tượng trưng
sử quan của công giáo, nên toàn hướng đến giải thoát bằng vào một hành vi duy
nhất của ý chí; vì trở về là xóa bỏ hết vết tích của thời gian.
Chính đức Phật đã thuật lại như
sau cảm tưởng trở về khi mắt Ngài, lần đầu tiên, mở ra trên Pháp mà chưa bao
giờ Ngài nghe nói đến.
“Cũng như người bộ hành sau bao
thuở lang thang trong cánh đồng hoang vắng rốt cuộc thấy một con đường cổ, con
đường bao người trước đã đi qua, ta bèn noi theo đó mà đi, và gặp làng mạc, cung
điện, vườn tược, núi rừng, hồ sen, thành quách, và nhiều cảnh trí khác từng làm
nơi an thân lập mệnh của bao người trước” [39].
Xét bề ngoài, cảm tưởng trở về
ngôi nhà cũ như mâu thuẫn với điều nhận xét trước về sự kiến chiếu vào những sự
vật chưa bao giờ hiện đến trong tâm; nhưng mâu thuẫn là ở luận lý, chẳng phải ở
tâm linh. Hễ Phật còn dụng trí dõi ngược chuỗi nhân duyên, nghĩa là còn toan
chuyển ngược về ý chí bản lai bằng con đường của ý thức kinh nghiệm, thì Phật
còn hỏng đích. Chỉ sau khi Phật xô ngã bức tường Vô Minh bằng khí lực của ý chí
thì Phật mơi dẫm lên được con đường cũ.
Con đường ấy tuyệt không thể nhận
ra bằng con mắt của trí thông minh, dù Phật vốn thông minh quán thế; cả đến
Phật vẫn không thể đứng ngoài định luật chi phối sử dụng trí ấy; chuỗi xích ấy
không thể đập náp được bằng cách ngồi đếm suông những mắc xích nhân quả, hết
đếm ngược lại đếm xuôi. Chính kiến thức nghĩa là Vô Minh đuổi A Đam từ vườn Địa
Đàng đoạ xuống thế giới của đau thương và khổ nhọc, nhưng đứng ra hòa giải với
Chúa Cha, đó là ý chí, chứ không phải kiến thức, ý chí đánh bạt Vô Minh và tạo
thành Giác Ngộ.
Cảm giác trở về nhận lại những
cựu sự xa xưa chứng nghiệm trong giây phút thành đạo là việc rất thường gặp ở
những người tu Thiền. Như trường hợp của sư Trí Khải [531-597] giáo chủ pháp
môn Thiên Thai ở Trung Hoa, được đời tôn xưng là Tứ Minh Tôn Giả Pháp Trí Đại
Sư. Sư học tham thiền với Tổ Nam Nhạc Huệ Tư [513-577], và dù không chánh thức
thuộc pháp hệ Thiền, sư vẫn được coi như một thiền sư chánh thống. Ở với Thầy, sư
luyện một phép thiền gọi là “Pháp Hoa Tam Muội”. Ngày kia sư tụng kinh Pháp Hoa
đến Phẩm Dược Vương Bồ Tát, câu “thị chân tinh tiến, thị danh chân cúng dường
Như Lai” thì thoạt nhiên nhập định. Trong định, sư thấy Phật nói kinh Pháp Hoa
tại hội Linh Sơn chưa tan. Sư thoát hiểu lời Tổ nói với sư:
“Xưa ông cùng ta đồng dự hội Linh
Sơn nghe kinh Pháp Hoa, duyên xưa theo đuổi, nay lại gặp đây”.
Sư xuất định thuật lại chỗ sở đắc
cho Tổ nghe. Tổ khen:
“Duy ông chứng được, chỉ ta mới
biết [40]”.
Các thiền sư thường bảo rằng
thánh chúng hội nghe kinh ở ngọn Linh Sơn nay vẫn chưa tan. Nhưng ta đừng lầm
đó chỉ là sự hồi tưởng quá khứ thuộc về phép thần thông của các bậc thánh tăng.
Giác Ngộ không liên quan gì đến sự hồi tưởng như vậy, vì Giác Ngộ vốn hàm dưỡng
gấp bội hơn bất cứ những gì diễn ra trong liên hệ thời gian. Cả đến khi kinh
Bát Nhã nêu rõ một nhân danh thưở trước hiện diện trong khi Phật nói kinh ấy, đó
vẫn chẳng phải chỉ là nhớ lại suông; khác hơn thứ hiểu biết thường thuộc hiện
tượng tâm lý, trí bát nhã đi sâu hơn nhiều trong nội thể con người. Với người
thâm ngộ, “phản bản hoàn nguyên” có nghĩa là sau bao thuở lưu lãng phong trần, một
lần nữa ý chí trở về ngôi nhà cũ an thân lập mệnh với một kho tàng chứng nghiệm
vô biên, và một huệ giác chiếu diệu khả dĩ sẽ soi từng bước đi trong cõi đời vô
tận.
7. Ý chí và thực chất niết bàn
Tôi thiết tưởng chưa hẳn là không
phải lúc đưa ra ở đây một vài nhận xét về ý kiến thường người ta đồng hóa triết
học Schopenhauer với Phật giáo. Theo ý kiến ấy, người ta cho rằng Phật dạy phủ
nhận ý chí sống, đúng như chủ ý của nhà triết học yếm thế Đức từng nhấn mạnh;
nhưng quả không gì nhầm hơn hiểu Phật giáo như một thứ hư vô luận. Phật không
cho ý chí là mù quáng, là phi lý, cho nên cần phủ nhận đi; cái mà Ngài thật sự
phủ nhận là khái niệm về cái tôi, do Vô Minh chấp làm thực thể, do sự ngã chấp
ấy nảy sinh tham dục luyến ái sự vật vô thường, và mở đường cho những vọng động
vị ngã.
Chủ đích Phật luôn luôn có trước
mắt, và không bao giờ quên tùy duyên mà nói lên, là chiếu sáng ý chí, không
phải phủ nhận ý chí. Lời Phật dạy dựa trên một căn bản khẳng định. Lý do Phật
không khuyến khích cuộc sống như của hầu hết chúng ta đây vì đó là sản phẩm của
Vô Minh và ngã chấp, trước sau gì cũng đẩy chúng ta xuống hố khổ đau và khốn
đốn. Phật chỉ con đường thoát ra bằng Giác Ngộ, không phải bằng hủy diệt.
Ý chí tự nó là một hành vi thuần
túy, không nhiễm chút bợn vị ngã; nó chỉ trổi dậy khi, vì lẽ tự mê, ý thức ngộ
nhận công năng của ý chí, và chấp lầm ý chí làm tự ngã. Vậy, Phật muốn một ý
chí linh minh kiến chiếu, không phải phủ nhận ý chí. Khi ý chí được kiến chiếu,
khi ý thức nhân đó được hướng dẫn thỏa đáng trong chiều hướng bản lai, là ta
thoát ly tất cả ràng buộc do vọng tưởng tròng vào ta, và thanh lọc tất cả phiền
não lậu hoặc “rĩ tiết” ra từ một ý chí chưa được nhận định đúng mức. Giác Ngộ
và giải thoát là hai khái niệm chủ yếu của Phật giáo.
Ở phương diện này, lời Mã Minh
đặt vào miệng Phật phản vấn ông tiên A ra la Ca lan, một triết gia cự phách của
phái số luận, [41] là những chứng cứ cực kỳ tỏ rõ. Sau khi nghe tiên ông dạy
phải xả thân [xác] cầu tâm [hồn] như chim sổ lồng, như cọng lau bóc hết vỏ, và
kết quả là dứt bỏ lòng ngã ái, Phật nhận định như vầy:
“Hễ hồn còn tồn tại thì không có
việc dứt bỏ ngã ái. Hồn không tự do được đối với các thuộc tánh [vật chất] một
khi nó chưa thoát li khỏi “số” [căn bản muôn vật] và những cái khác; bởi vậy, không
tự do đối với thuộc tánh thì không thể có giải thoát cho linh hồn. Vả lại, thuộc
tánh không thể tách rời chủ tánh; vì ngoài hình dáng và tánh nóng không thể có
ý niệm lửa. Cũng như trước khi có thân không có gì là hình thể, cũng vậy trước
khi có thuộc tánh không có gì là chủ tánh; vậy nếu bản lai là tự do, sao hồn
lại có thể bị trói buộc được? Cái thể năng biết [hồn] vốn không hình thể ắt
phải hoặc biết, hoặc không biết; nếu biết thì phải có một đối tượng để biết, mà
nếu có đối tượng thì chưa phải là giải thoát! nếu không biết thì hà tất tưởng
tượng ra linh hồn làm gì? Mà khi không có linh hồn thì hẳn nhiên là không có
kiến thức, chẳng hạn như trong khúc gỗ, bức tường. Và vì lẽ mỗi sự dứt bỏ lần
hồi vẫn còn đèo theo thuộc tánh, tôi chủ trương rằng cứu cánh chỉ đạt đến bằng
phép “nhất thiết phóng xả hết”.
[Phật sở hành tán]
Hễ còn nắm lấy quan niệm nhị
nguyên cầu giải thoát linh hồn thì không bao giờ thật sự có tự do, đúng như lời
Phật dạy. “Nhất thiết phóng xả hết” có nghĩa là siêu lên cái thế hai đầu của
hồn và xác, của chủ và khách, của cái biết và cái được biết, của cái phải và
cái trái, của hồn và không hồn; sự siêu lên ấy không phải chỉ phủ nhận suông
linh hồn hoặc ý chí mà được, mà phải phóng ánh sáng vào bản thể nó, phải thân
chứng nó đúng “như thực”. Đó thuộc hành vi của ý chí. Xét bằng kiến thức theo
như lời dạy của các đạo sư Số luận không đưa đến tự do cho tinh thần, chỉ dắt
đến cảnh giới tiêu cực của hư vô. Phật giáo dạy tự do, không dạy hủy diệt; dạy
kỷ luật tinh thần, không dạy hôn mê, không tưởng. Phải xoay ngược lại nếp sống
thường, phải mở rộng ra trước một tâm cảnh mới nếu muốn là chân đệ tử của Phật.
Phật ghê tởm chủ trương khổ hạnh, hư vô, cũng như phóng túng, điều ấy trở thành
dễ hiểu dưới ánh sáng vậy.
Trung Bộ Kinh thuật lại cuộc hỏi
đạo của Phật ở các nhà tư tưởng Số luận có phần hơi khác hơn lời thuật của nhà
thơ Đại Thừa, [42] nhưng theo một chiều hướng chống đỡ mạnh hơn luận giải của
tác giả về lý Giác Ngộ. Lý do Phật không thỏa mãn đạo lý của hai ông tiên A ra
la và Uất đà la [43] được diễn như vầy: “Giáo lý ấy không đưa đến phản tỉnh, đến
xả trừ, đến yên tịnh, đến thâm ngộ, đến diệu giác, đến Niết Bàn, mà chỉ đạt đến
cảnh giới hư vô”. Vậy Phật hiểu Niết Bàn là thế nào, vì trên mặt chữ nghĩa, Niết
Bàn là hủy diệt, hoặc dập tắt [tịch diệt], nhưng ở đây Phật ghép chung với
những thành ngữ như diệu giác, thâm ngộ, phản tỉnh [tức tái thẩm định] và tương
phản với hư vô? Cứ xét theo những danh phẩm ấy, thật không có gì phải ngờ vực
Niết Bàn là một quan niệm rất thực tiễn chỉ vào một chứng nghiệm nào đó có thể
xác định được. Khi Phật trở lại bờ sông Ni Liên, rải cỏ làm tòa, ngồi kiết già
nơi bóng cây mát và yên lặng, Ngài thề không chứng đạo quyết không rời nơi này.
Theo Kinh Phổ Diệu, Phật phát thệ như vầy:
Dù thân này có khô héo nơi đây
Dù da xương thịt này có tan nát
Hễ chưa chứng được Vô Thượng Bồ Đề
khó chứng trong nhiều kiếp
Ta quyết không rời khỏi chỗ ngồi này.
Với chí nhất quyết ấy, rốt cùng
Phật chứng quả Chánh Đẳng Chánh Giác sau bao kiếp lao tâm khổ trí tìm cầu. Sự
chứng này có khác với những lần chứng trước khi Ngài hỏi đạo ở hai ông tiên A
ra la và Uất đà la không? Xin lắng nghe lời Phật nói:
“Này các thầy, bấy giờ chính ta
cũng phải sinh ra, nhưng xét thấy có sinh thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an
tịnh vô thượng của Niết Bàn vốn không sinh; cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã
chứng đến, và cả Niết Bàn không sinh nữa.
Chính ta cũng phải trưởng thành
và suy nhược, nhưng xét thấy có trưởng thành suy nhược thì có khổ nên ta hướng
đến cảnh an tịnh vô thượng của Niết Bàn vốn không trưởng thành suy nhược; cảnh
an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng đến, và cả Niết Bàn không trưởng thành suy
nhược nữa.
Chính ta cũng mắc phải bịnh tật, nhưng
xét thấy có bịnh tật thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của
Niết Bàn vốn không bịnh tật; cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng đến, và cả
Niết Bàn không bịnh tật nữa.
Chính ta cũng phải chết đi, nhưng
xét thấy có chết thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của Niết
Bàn vốn không có chết; cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng đến, và cả Niết
Bàn không có chết nữa.
Chính ta cũng mắc phải ưu phiền, nhưng
xét thấy có ưu phiền thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của
Niết Bàn vốn không ưu phiền; cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng đến, và cả
Niết Bàn không ưu phiền nữa.
Chính ta cũng mắc phải ô nhiễm, nhưng
xét thấy có ô nhiễm thì có khổ nên ta hướng đến cảnh an tịnh vô thượng của Niết
Bàn vốn không ô nhiễm; cảnh an tịnh vô thượng ấy ta đã chứng đến, và cả Niết
Bàn không ô nhiễm nữa.
Bấy giờ, ta thấy ta biết: “Ta tin
quyết đã giải thoát xong. Đây là lần sinh cuối cùng của ta; không bao giờ ta
trở lại kiếp sống này. “
[Trung A Hàm, XXVI]
Niết Bàn mà gọi là không sinh tử,
không ô nhiễm, không ưu phiền, thoát ngoài bệnh tật, ngoài “thành, trụ, hoại, không”,
thì dường như khá tiêu cực thật đấy; nhưng nếu không có gì là khẳng định hết ở
những phủ nhận ấy ắt Phật không thể nghỉ yên trong cảnh “an tịnh vô thượng” ấy
của Niết Bàn, và tin quyết ở cứu cánh giải thoát như vậy được. Bởi vậy, ta có
thể thấy cái mà Phật phủ nhận chính là Vô Minh, căn nguyên của sinh tử, và vô
minh ấy chỉ có thể đánh bạt được bằng tất cả khí lực bình sinh của ý chí, chứ
không phải bằng hư luận, bằng trầm tư. Ý chí được xác định vậy, và ý thức được
điều trực lại. Được chiếu diệu như vậy, tất cả thèm muốn, cảm nghĩ và dụng công,
tất cả đều dứt hết cái mê vị ngã, hết tạo nhân cho những ô nhiễm, triền phược
và đủ thứ chướng ngại khác như phần nhiều được đề cập trong văn học Phật giáo, về
đại thừa cũng như tiểu thừa. Trong ý nghĩ ấy, Phật là Người Chiến Thắng, không
phải chiến thắng bông lông cái hư vô không tưởng, mà là chiến thắng những điên
đảo vọng tưởng, bóng tối và Vô Minh.
***
Tất cả phụ đề trong bài luận này
đều do dịch giả đặt ra.
[1] Lịch sử thành đạo của Phật
được kể lại trong Trường Bộ Kinh XIV, và trong bài tựa bộ Bản Sinh đàm [Jataka
Tales], trong Luận sự [Mahavastu], và trong Trung Bộ Kinh, XXVI và XXVI, và cả
trong Tương Ưng Bộ Kinh XII nữa. Chi tiết tuy có sai khác nhau, nhưng chỉ về
hình thức thôi. Bản Hán dịch “Phật thuyết quá khứ hiện tại nhân quả kinh” dường
như ra đời sau bộ Mahapadana pali [Đại Phẩm luận văn Pali], có nhiều điểm sai
khác hơn, nhưng tinh thần vẫn là một. “Phật sở hành tán” [Buddhacarita] của Mã
Minh vi vút trên thơ mộng. Bộ Phổ Diệu [Lalita vistara] thuộc hệ thống Đại Thừa.
Trong thiên cảo luận này, tôi tùy tiện mượn tài liệu ở các bản dịch The
dialogues of the Buddha [Thái Tử Thoại Ứng kinh] của Rhy Davids; The Kindred
Sayings [Tạp sự?] của bà Davids, Majjhima Nikaya [Trung Bộ Kinh] bản của
Silacara và bản của Neumann, các Bộ A Hàm Trung Hoa, và đôi tài liệu khác.
[2] Mahapadana Suttanta
[3] Quan niệm có nhiều vị Phật
khác trong quá khứ dường như xuất hiện rất sớm trong lịch sử Phật giáo như ta
có thể nhận thấy ở đây, rồi theo đà tiến triển mãi sau này kết hợp với quan
niệm bản sinh [jataka: tiền thân] và cuối cùng qui thúc vào quan niệm Bồ Tát
thành một đặc trưng của Đại Thừa giáo. Sau vị Phật quá khứ sau này tăng lên hăm
ba hoặc hăm bốn vị trong Phật sử của Phật đà vương sa [Buddha vamsa] và Bát nhã
Ba la mật đa, rồi còn tăng lên bốn mươi hai vị trong Phổ Diệu [Lalita vistara].
Quan niệm cổ Phật hoặc tiền bối ấy dường như khá phổ biến ở nhiều dân tộc. Ở
Trung Hoa, Khổng Tử nhận minh thừa truyền cái học của Nghiêu Thuấn, còn Lão Tử
tổ thuật theo Hoàng Đế. Ở Ấn Độ, giáo lý Kì Na [Janaism] và cả đến cá thể của
vị tổ khai sáng là Đại Hùng [Mahavira] có nhiều điểm tương đồng với Phật giáo, cũng
lập lên hai mươi ba vị tiền bối có ít nhiều liên hệ với các vị cổ Phật của Phật
giáo.
[4] Ta có nhiều nghi vấn xác đáng
về thuyết Nhân Quả hoặc nhân Duyên của Phật, vì thuyết Nhân Duyên thường được
diễn dịch khác hẳn nhau. Trong bộ kinh trên, Phật đi đến thức [ý thức hoặc sự
hiểu biết] là ngừng, còn theo thuyết hiện đại chuỗi xích lại khởi đầu ở vô minh
[avijja]. Dù sao, ta không thể quyết đoán rằng chuỗi xích mười nhân duyên ấy là
giáo lý cổ nhất và có uy thế nhất của giáo lý duyên khởi [paticca samuppada]. Ở
nhiều phương diện, ta có thể lý do để ngờ rằng đoạn kinh trên mới được kết tập
lại sau này. Điều tôi muốn biện giải ở đây chỉ nhắm vào những cố gắng tri thức
của đức Phật để giải thích những thực tại của nhân sinh bằng lý thuyết nhân
duyên. Phật coi vô minh như căn bản của sinh tử, nghĩa là của tất cả khổ não
của thế gian, điều ấy quả thực đã được xác định hẳn hòi rồi trong Phật giáo sử.
[5] Có một bài kệ khác được coi
như do Phật nói ra khi vừa thành Chánh Giác. Đó là bài “khúc hùng ca tối
thắng"” đã thuật ở bài luận trước, coi trang 100. Trong kinh điển Đại Thừa
không có bài kệ ấy. Riêng kinh Phổ Diệu [Lalita vistara] chỉ có hai câu này:
Chinna vartm opasanta rajah suskha asrava, na panah sravanti; chinne vartmani
vartata dukhasyaisho anta ueyate
[6] Ta là vị la hán trong thế
gian này, ta là vị thầy vô thượng [DG]
[7] Bộ Ma ha chỉ quán, 142, kể ra
13 danh từ chỉ sự hiểu biết dưới nhiều khía cạnh khác nhau: buddhi, mati, gati,
matam, drishtam, abhisamitavi, samyagavabodha, supratividdha, abhilakshita, gatimgata,
avabodha, pratyabhijna va menire.
[8] Ekacitt ekshana samyukta
prajna. Một niệm là một tư tưởng [tâm niệm] mà cũng là một thời gian ngắn nhất [satna].
[9] Vọng tưởng: vikalpa; biến kế
chấp: parikalpana [cái thấy bị bóp méo do chấp trước theo định kiến] DG.
[10] Thứ trí thức luận này Khổng
giáo gọi là “cách vật trí tri” và đó cũng là phương pháp luận của Descartes. Thành
ngữ “nhất niệm”, “nhất tâm” và “nhất satna gian” [thời gian của một chứp nhoáng]
dùng chung nhau một nghĩa [DG]
[11] Franz Pfeiffer, p. 312, Martensen,
p. 29
[12] Yatha Bhutam dassana: sự vật
thế nào thì thấy biết như thế ấy, thấy biết đúng với chân tính của sự vật, thấy
biết “như thực” D. G
[13] Theo bản dịch chữ Anh của Tì
Khưư Silacara. Bản dịch văn Pali trong Digha Nikaya, 26.
[14] Như thực: yatha bhutam [the
reality as it is]. Như thị, chân như, như như, như: tatha [thatness, or
suchness or ainsite].
[15] Anuttara samyak sambodhi, người
Tàu phiên âm là a nậu đa la tam miệu tam bồ đề.
[16] Ốc xá giả [屋舍者]=
gahakara, coi trang 100, hoặc kinh Pháp Cú, 153-154 [DG]
[17] Chuỗi xích 12 nhân duyên
hoặc duyên khởi [paticca samuppada] móc nối như sau: 1. vô minh [avijja]; 2. hành
[sankhara]; 3. thức [vinnana]; 4. danh sắc [namarupa]; 5. lục nhập [salayatana];
6. xúc [phassa]; 7. thọ [vedana]; 8. ái [tanha]; 9. thủ [npadana]; 10. hữu [bhava];
11. sinh [jati]; 12. lão tử [jaramaranam].
[18] Phật giáo nói “nhất niệm
khởi, thiện ác phân” Hiện tượng phân tâm ấy, Thiền Tông gọi là “tâm thượng sinh
tâm” [trên cái tâm này thêm một cái tâm]. Cái tâm sau là niệm, hoặc tư tưởng, .
Đó là một cái thừa nên sinh mê và khổ. Cụ thể hơn, Thiền tông hình dung hiện
tượng phân hóa ấy bằng hình ảnh một cái đầu ghép trên một cái đầu [đầu thượng
trước đầu]. Tu đạo là nhằm phục hoàn cái tâm bản lai ấy. Sứ mạng của Tổ Đạt Ma
qua Tàu là nhằm hoàn nguyên cái chân tinh thần ấy của Phật Đà, bằng cách hồi
đầu chuyển hướng về miếng đất giác trang nghiêm ở bờ bên kia. Đó là ý nghĩa của
sự “thấy tánh thành Phật” [D. G]
[19] Thấy như vậy, biết như vậy [evamjanato
evam passato] là câu thường gặp luôn trong văn học Phật giáo, Tiểu thừa cũng
như Đại thừa. Các nhà trước thuật Phật giáo dù có phân biệt hay không phân biệt
giữa cái thấy và cái biết theo trí thức luận hiện đại, thì sự kết hợp hai danh
từ ấy vẫn có nhiều ý nghĩa hệ trọng. Các ngài hẳn thừa hiểu “cái biết” không đủ
khả năng diễn đạt được cái gì Phật “thấy” trong giờ ngộ đạo. “Thấy” hoặc “đốn
kiến” chỉ vào tánh cách tức thì, sắc bén nhất, đáng tin nhất của cái biết ấy. Như
chúng tôi đã lưu ý ở nhiều chỗ khác, Phật giáo rất giàu từ ngữ thuộc loại thấy
biết như trên.
[20] Mahali sutta trong Trường Bộ
Kinh [D. G]
[21] Phép thần thông đạt được
bằng phương pháp định tĩnh dường như rất thạnh hành ở Ấn Độ, cả đến ngay từ
thời sơ khởi của nền văn minh Ấn, và Phật thường được chư đệ tử thỉnh cầu thi
thố phép lạ ấy. Những tiểu sử của Ngài sau này đã thật sự biến Ngài thành một
bậc chuyên hóa phép thần thông quảng đại, hoặc ít ra theo sự xét đoán thông
thường bằng luận lý và khoa học của ta hiện nay. Nhưng theo giáo lý Bát Nhã thì
“Như Lai nói sở đắc vì thật chẳng phải là sở đắc nên gọi là sở đắc” [yaisha
bhayavan lakshanasampat tathagatena bhashita alakshanasampad esha tathagatena
bhashita; tenocyate lakshanasampad iti] nên phép thần thông Phật phô diễn có
một huyền nghĩa hoàn toàn khác hơn. Theo kinh Kiên Cố [Kevaddha sutta] Phật có
ba phép lạ này: biến hóa thần thông, tha tâm thần thông, và giáo hóa thần thông.
Người có phép biến hóa thần thông có thể làm những việc ngoài lý luận và công
lệ sau đây: Một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân trở thành một thân, thân
hình đi ngang qua vách qua tường qua núi như đi giữa hư không, độn thổ, độn
thủy, phi hành trên nước như đi trên đất liền, ngồi xếp bằng đi trên hư không
như chim bay, hai tay có thể chạm rờ mặt trời mặt trăng, những thiên thể đầy
oai lực và thần lực, có thể tự mình bay đến cõi trời Phạm Thiên. Ta nên hiểu
thế nào? Y theo chữ nghĩa hay bằng trí giải? Ta không thể giải thích theo duy
tâm luận của Bát Nhã học sao? Tại sao? “Tâm gọi là tâm vì chẳng phải là tâm”. Kim
cương: chư tâm giai vi phi tâm thị danh vi tâm].
[22] Những vấn đề ấy, theo
Pothapada sutta [kinh Bô Thác Bà Lậu], là: thế giới này thường hằng? hay không
thường hằng? hữu hạn? hay vô hạn? hồn có khác với xác không? Như Lai có tồn tại
không sau khi chết?
[23] động tâm mống niệm [D. G. ]
[24] Kinh Kim Cương, phẩm thân
phi tướng.
[25] Coi Kinh Pháp Cú, bài 385;
Kẻ nào không thấy có bên kia, bên này, cả hai bên đều là không, kẻ ấy xả lìa
hết ham đắm, ta gọi đó là Phạm Chí [thích bỉ vô bỉ, bi bỉ dĩ không, xả li tham
đắm, thị vi Phạm Chí].
[26] Câu nói “chỉ đạo vị tằng
chân tục” là diễn này [D. G. ]
[27] Đó là lý do thiền sư Huyền
Giác nói:
Tánh thực của Vô Minh tức Phật
Tánh
Thân không của Ảo Hóa tức Pháp
Thân
Thông thường hơn, đạo Phật nói
“phiền não tức bồ đề, Niết Bàn tức sinh tử luân hồi”[D. G]
[28] Sutta Nipata. V. 1004
[29] Sutta Nipata, V. 720, Sananta
yanti kussobbha, tunhyati mahodadhi.
[30] Asavem Khata nana.
[31] Na abhinnaya na sambhodaya
na nibbanaya amvattati.
[32] Chân lý cao thượng [thánh đế]
đưa đến giải thoát.
[33] Trung Bộ Kinh 22
[34] Coi Sutta, Nipata, V. 21 “Ta
đã đóng một chiếc bè chắc chắn, ta đã đến tận Niết Bàn, ta đã qua bờ bên kia, chiến
thắng dòng cuồng lưu tham dục; ta không còn dùng chiếc bè vào việc gì nữa, vậy
trời muốn mưa thì cứ mưa. ”
[35] Pháp: dharma; phi pháp:
adharma [chẳng phải là pháp]. Tôi để nguyên chữ pháp của người Trung Hoa vì
không thể dịch được; có người dịch là chánh lý, hoặc đạo lý, hoặc đức tánh, nhưng
quả thật rất khó dịch cho ổn thỏa. Các học giả Trung Hoa dịch dharma bằng một
chữ chung là “pháp”, không cần phân biệt nghĩa riêng trong từng đoạn văn. Trong
trường hợp trên, pháp có thể hiểu là sự xử trí tốt đẹp, hoặc khuôn phép luân lý,
hoặc rộng hơn mọi giáo lý có hiệu quả tốt. Trong Kinh Lăng Già, phẩm 1, cũng có
đề cập đến sự siêu việt cả phi pháp và pháp, [dharma eva prahatavyah
pragevadharmah], và giải thích rằng chỉ vì vọng tưởng phân biệt nên thấy có mâu
thuẫn giữa cái phải và cái trái trong khi thật sự cái này chỉ là phản ảnh của
cái kia.
Cũng ví như anh nhìn trong gương
thấy ảnh mình, anh chấp ảnh ấy là thật trong khi ảnh ấy chỉ là anh, chẳng phải
gì khác. Ai quán thế gian y như vậy tức có chánh kiến. Thật vậy, hễ sự quán
tưởng được nhất như thì tâm chứng vào cảnh giới thánh trí tự giác, và mở cái
gọi là Như Lai Tạng. Trong lời giải thích trên, pháp và phi pháp đồng nghĩa với
có [sat] và không [asat] hoặc khẳng nhận [asti] và phủ nhận [nasti]. Vậy, phá
bỏ cả pháp và phi pháp có nghĩa là thoát ly cái chấp nhị nguyên cùng với tất cả
rối ren và vướng mắc. Về mặt triết lý, sự phá bỏ ấy là nhằm hòa đồng với cái
Tuyệt Đối, còn về mặt luân lý, đó là vượt qua cả thiện và ác, thị và phi. Coi
luôn Sutta Nipata, v. 886, tin tưởng nhị nguyên ở đây được coi như kết quả của
cuộc triết luận sai lầm.
[36] Tóm lược Trung bộ kinh, 22
trang 136. Coi luôn Tương Ưng Bộ Kinh, 70, XII, p 125.
[37] Coi kinh Pháp Hoa, chuyện
cùng tử, phẩm IV, và Kim Cương Định, Phẩm IV.
[38] Thuật ngữ gọi là “nhất niệm
khởi’. Khi niệm dấy lên là có trạng thái phân tâm, từ một cái tâm toàn nhất chẻ
làm hai, có tâm và có niệm [tư tưởng]. Thành ngữ “tâm thượng sinh tâm” trên tâm
nảy thêm một cái tâm chỉ về hiện tượng tâm lý này, Tổ Vân Môn còn nói cụ thể
hơn: Đầu thượng trước đầu, Tuyết thượng gia sương, nghĩa là trên cái đầu ghép
thêm một cái đầu, trên tuyết đổ thêm sương [D. G. ]
[39] Tương Ưng Bộ Kinh , XII, 65 [nagara],
coi luôn “Văn Thù Sư Lợi sở thuyết bát nhã ba la mật đa kinh”. Ở đây Phật ví
như người thợ mõ tìm ngọc, hoặc người tràn ngập niềm vui khi nghe người ta vui
vẻ kể lại những thành thị và làng mạc mà chính anh đã viếng qua thưở trước. Cũng
niềm hoan lạc ấy đến với người nghe và hiểu pháp bát nhã vì kiếp trước ông có
mặt trong pháp hội nghe Phật nói kinh ấy. Hiểu pháp bát nhã chỉ là một cách nhớ
lại, câu nói thực nhiều ý nghĩa xét theo lý giác ngộ nêu trên Giác Ngộ đi kèm
theo hồi tưởng kỷ niệm xưa, điều ấy cũng được nhà trước tác Kena Upanishad [VI,
50] ghi lại tỏ rõ:
Rồi từ nơi tự ngã
Như có cái gì ấn sâu vào tâm thức
Khiến tâm thức bỗng dưng nhớ lại
Trạng thái ấy biểu hiện sự trổi
dậy của tri giác trong tự ngã.
Thầy Bà La Môn Sonadanda khi nghe
Phật nói về hạnh Phạm Chí tán thán như vầy: Lành thay, thầy Cồ Đàm! cũng hệt
như người lượm lại cái gì đã đánh rơi, hoặc vạch trần cái bị che khuất, hoặc
chỉ con đường đúng cho khách lạc đường, hoặc đem ánh sáng vào bóng tối để mọi
người có mặt đều nhận thấy được, cũng hệt như vậy, thầy Cồ Đàm chỉ cho tôi thấy
sự thật bằng vô số hình ảnh.
[40] Đoạn này lược thuật theo tài
liệu Trung Hoa thay vì dịch theo bản văn chữ Anh [D. G. ]
[41] Số luận: samkhya, học phái
của Arada [hoặc Alara Kalama], một trong số lục sư ngoại đạo chủ trương vật tâm
nhị nguyên luận, và thần ngã độc tôn.
[42] Mã Minh
[43] Alara Kalama và Uddka.
Tác giả: Daisetz Teitaro Suzuki
Việt dịch: Trúc Thiên
Nguồn: quangduc.com