Jean-Paul Sartre |
Thật ra những quan điểm cấp tiến
“Vì quần chúng lao khổ” xưa nay vốn chẳng hiếm hoi gì, vì rốt cuộc đâu vẫn hoàn
đấy. Tuy nhiên với tên tuổi của Sartre người ta vẫn tin ở thiện chí của ông,
bởi ông không chỉ nói mà làm cũng rất nhiều. Chẳng hạn ông phản đối rất kiên
quyết trong các cuộc chiến tranh ở Đông Dương, ở Algerie… hoặc trong các vấn đề
liên quan tới các nước thuộc thế giới thứ 3 như Cu-Ba và các quốc gia nghèo khổ
ở Châu Phi…
Thế nhưng do đâu ông lại có cái
lập trường dấn thân khuynh tả lương thiện, điều mà nhiều người nhận thấy nó
phần nào xa lạ với triết thuyết của ông – cái triết thuyết có phần khó hiểu –
mặc dầu nó đã khiến ông lừng lẫy tiếng tăm; nhất là từ sau thế chiến II. Đến độ
không chỉ riêng ở Pháp hay ở Châu Âu mà khắp nơi cùng chốn, không đâu là không
nhắc đến tên tuổi Sartre, với chủ thuyết hiện sinh của ông. Phải nói, ông không
chỉ là một triết gia độc đáo, một tâm lý gia tài năng, một nhà hùng biện rất
được kiêng nể; mà hơn nữa, ông còn là một nhà văn cực kỳ sắc bén, nhạy cảm với
những vấn đề thời đại; dám viết về những đề tài cấm kỵ (tabou) một cách thản
nhiên, điều mà ngay cả những nhà văn “hiện thực” bạo gan nhất cũng phải e dè. Nên
trong những năm cao trào từ 1945 – 1955, giới trẻ tôn vinh ông làm thần tượng. Người
ta đua nhau nói đến hiện sinh, sống theo hiện sinh và xem ông như giáo chủ của
trào lưu triết học này.
Vậy trước hết cần hiểu sơ qua
triết học hiện sinh là gì? - Đó là triết học vì con người, lấy con người làm
trung tâm - để đối trị với những nguyên lý triết học cổ điển truyền thống,
thường chỉ hướng con người tìm hiểu những lý lẽ huyền vi của tạo hóa mà quên đi
thân phận của chính mình. Hơn ai hết triết học Sartre nhấn mạnh: Hiện sinh là
tôi đang sống đây, bất kể người ta nói gì chăng nữa, thì việc tôi hiện hữu “như
thế này” là một thực tế; do vậy, điều tôi quan tâm trước hết là tôi đang tồn
tại, đang sống theo đúng nghĩa “hiện sinh” chứ không phải là chỉ “hiện hữu” như
tảng đá, cái cây hoặc những loài cầm thú.
Những quan niệm trên đã được nhà
hiện sinh chủ nghĩa Lavelle (La – ven) minh xác rất hay “Tôi cảm thụ vậy thì
tôi tồn tại ”. Câu nói này của ông rõ ràng, sâu sắc hơn câu “Tôi tư duy vậy thì
tôi tồn tại” của Descartes (Đề – các); bởi lẽ cảm thụ cụ thể hơn tư duy, đúng
như nhà văn Balzac (Ban – Dắc) cũng từng nói “Sự sống của con người được đo
bằng cảm thụ sống, chứ không phải bằng thời gian sống”. Tuy nhiên với Kirkegard
tồn tại cũng đồng nghĩa với lo âu, do đó “tôi lo âu vậy thì tôi tồn tại”. Còn
đối với A. Camus là lòng phẫn nộ “Tôi phẫn nộ vậy thì tôi tồn tại” mỗi người
một vẻ. Song có thể nói, những triết gia đó đã nói về ‘hiện sinh’ rõ hơn Sartre
nhiều, còn như việc Sartre nổi tiếng hơn, tiêu biểu hơn, thời thượng hơn, đó là
chuyện chúng ta sẽ bàn tới trong tiểu luận này.
Trước hết phải thừa nhận sự
khuynh loát của Sartre trên văn đàn triết học Châu Âu sau thế chiến II đã khuấy
động sinh hoạt của một bộ phận lớn giới tinh hoa trí thức Châu Âu đương thời. Vậy
điều gì đã khiến cho triết thuyết của ông chẳng những có được ảnh hưởng hơn
những nhà hiện sinh cùng thời khác như Jasper,(Giát – Spơ) Marcel (Mac – xen),
Heidegger (Hai - đơ - gơ), Camus (Ca-Muy) mà thậm chí còn hơn cả những bậc tiền
bối lừng danh như Kirkegard (Kiếc - cơ - ga), Husserl (Hu – sớt), Nietzsche
(Nít – xơ).
Có thể nói Sartre nổi trội trong
thế giới hiện sinh chủ nghĩa, vì ông đã nêu lên một cách hăng hái nhất về tính
thực tế đầu tiên của “tôi đang sống đây”, bằng định nghĩa “Chủ nghĩa hiện sinh
chủ trương nơi con người và chỉ nơi con người, nó khẳng định hiện sinh có trước
bản chất”. Bằng định nghĩa trên, ông tự xem mình như một nhà vô địch về chủ
nghĩa nhân văn, đã dành cho thực tiễn nhân sinh tất cả trái tim khối óc của
mình. Nói như Simone De Beauvoir (Si – Mon - Đơ - Bô - Voa) “Chổ nổi bật của
Sartre là toàn tâm toàn lực chú trọng đến thực tại". Phải nói Sartre chú
trọng đến thực tại, không chỉ có nghĩa ông quan sát, theo dõi hay phân tích để
hiểu thực tại, mà theo nghĩa bao trùm tất cả; đó là “hành động”: Không có ai và
không có cái gì tạo ra con người, ngoại trừ chính hành động của họ. Do đó “Con
người là một dự tính của chính mình và tự tạo ra mình, chính việc làm mới mặc
khải hữu thể”.
Có thể xem những lời trên là
tuyên ngôn cho thuyết hiện sinh hành động của Sartre. Thế nhưng, những triết lý
cơ bản của ông được trình bày trong cuốn sách nổi tiếng “Thực Thể và Hư Vô”
(L’être et le néant) mà nhiều người thường xem là nền tảng của triết học
Sartre, lại cho thấy những mặt khác trong tư tưởng của ông, và những mặt khác
này khó có thể hài hòa về mặt luận lý để dẫn tới chủ nghĩa hiện sinh hành động
nổi tiếng nói trên.
Tựu trung mỗi triết thuyết đều
đưa ra quan điểm về ba vấn đề then chốt trong triết học: vũ trụ, thượng đế, con
người. Trước hết hãy bàn về thượng đế; vì Sartre là một triết gia vô thần, nên
sự phủ định thượng đế của ông là đương nhiên, và cái chính là cũng không có gì
mới mẻ lắm, chẳng hạn ông cho rằng thượng đế chỉ là một dự phóng, một phóng thể
(projet) của con người, nói một cách dễ hiểu, là chính con người đã tạo ra
thượng đế; theo sự tưởng tượng của mình. Hegel (Hê –ghen) đã nói như thế, L. Feuerbach
cũng nói như thế, và Marx (Mác) cũng lặp lại như vậy. Có khác là ở chỗ Hegel đã
đưa ra một giải đáp về thượng đế, còn Marx thì tìm cách để chấm dứt cái phóng
thể lớn nhất đó của con người.
Như vậy phải thấy rằng động thái
phóng thể của Hegel nhằm tiến tới khẳng định vai trò của thượng đế. Trong khi
Marx và các triết gia duy vật vô thần khác, thừa nhận sự phóng thể của triết
học Hegel là nhằm phủ định thượng đế, bởi đó chỉ là hình ảnh được phóng chiếu
từ bản thân con người mà thôi.
Đến đây thiết tưởng cũng nên tìm
hiểu sơ qua về khái niệm thượng đế của triết học Hegel. Hegel cho rằng khởi
thủy vũ trụ chỉ là Ý Niệm (Idée) tức thượng đế; qua quá trình biện chứng tự
phân đôi mình, hiện hữu thành thế giới khách thể, tức trạng thái vong thân
(Aliéné) cũng gọi là phóng thể. Để cuối cùng qua toàn bộ quá trình lịch sử của
vũ trụ, đã tự nhận thức ra được chính bản thân mình. Tiến trình này được ông mô
tả trong tác phẩm “Hiện tượng luận tinh thần”, trình bày về sự phát triển của ý
thức, tinh thần qua những giai đoạn biện chứng của thực tại khách quan lịch sử.
Như vậy, phép biện chứng Hegel là
phép biện chứng duy tâm. Bởi ông xem các giai đoạn tiến hóa trong vũ trụ là tất
yếu, để dẫn đến sự tự nhận thức về bản thân mình của Ý Niệm Tuyệt Đối tức
Thượng Đế. Thế nên, với ông, sự hình thành các quốc gia trong lịch sử, không
đơn thuần chỉ là sự tiến hóa của quá trình vận động nơi bản thân lịch sử; mà nó
chính là sự thể hiện các giai đoạn tiến hóa được gọi là “biện chứng” của Ý Niệm
Tuyệt Đối.
Tư duy này đã dẫn đến mệnh đề nổi
tiếng của triết học Hegel “những gì thực sự tồn tại đều có lý do của nó” nguyên
văn tiếng Đức (Was Wirkliche Wird Vernunftig) nghĩa là mọi sự hiện hữu trên đời
đều phải có lý do đích thực của nó – thay vì cho cách hiểu thực dụng theo quan
điểm duy vật biện chứng “những gì thực sự hợp lý mới tồn tại”. Tóm lại phép
biện chứng Hegel được triển khai trên con đường dài, nhưng khép kín trong vòng
tròn của Ý Niệm Tuyệt Đối: Nhằm mục đích cho việc tự phát triển những nhận thức
về chính mình của Thượng Đế. Và con người của triết học Hegel qua quá trình của
các giai đoạn biện chứng, sẽ hóa giải được tình trạng vong thân phóng thể của
mình. Để cuối cùng đồng nhất với những giá trị tinh thần cao quý của Ý Niệm
Tuyệt Đối tức là Thượng Đế vậy.
Trong khi, quan niệm duy vật của
Marx đã phủ định thượng đế, nên nó cũng chấm dứt luôn cả cái phóng thể về
thượng đế của con người. Tuy vậy Marx giữ lại hạt nhân hợp lý của triết học
Hegel: Đó là phép biện chứng mà với ông nó chỉ là những giai đoạn tiến hóa hợp
lý đơn thuần trong quá trình vận động của chính bản thân lịch sử.
Từ những quan điểm trên, Mác cho
rằng tình trạng phóng thể vong thân chủ yếu nơi con người là vong thân kinh tế.
Như vậy trong xã hội tư bản, người lao động chính là kẻ bị vong thân. Bởi mọi
hàng hóa họ làm ra đều bị chủ tư bản chiếm dụng qua giá trị thặng dư. Nên càng
làm ra nhiều của cải cho xã hội, họ càng nghèo đi, càng đánh mất giá trị bản
thân trong mối quan hệ xã hội. Marx cho rằng, quyền tư hữu chính là thủ phạm
gây nên sự vong thân của người vô sản trong xã hội tư bản. Do vậy, ông chủ
trương xã hội cộng sản để triệt phá tận gốc sự tư hữu như là nguồn gốc của sự
vong thân nói trên. Và qua đó sẽ vãn hồi được những giá trị tinh thần như tự do
– công bằng – bác ái của con người xã hội.
Điểm lại vài dòng đại cương về
khái niệm Thượng đế qua phép biện chứng Hegel và Các – Mac. Vì triết học Sartre
chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ tư tưởng đó: Sartre cũng tạo dựng sinh hoạt của
con người trên tính lịch sử và quá trình biện chứng. Song khác một điều và là
điều quan trọng: Sartre cho rằng, con người không bao giờ có thể chấm dứt tình
trạng vong thân phóng thể. Vì vậy mà Verneaux và nhiều học giả nghiên cứu về
Sartre đều cho rằng: “thuyết hiện sinh của Sartre là học thuyết Hegel, nhưng
thiếu phần tổng đề của Hegel”. Sartre lập luận: Dự phóng căn bản muốn đồng nhất
với thượng đế của con người là một ảo tưởng điên rồ. Bởi cái bản tính muốn đồng
nhất đó đã khiến con người sống trong sự đam mê, đến mức nó tự quên mình, mà
không biết rằng, ý niệm thượng đế là một ý niệm mâu thuẫn. Và con người chúng
ta đã uổng công khi theo đuổi những giá trị vô cùng đó. Đây chính là duyên do
tính chất bi đát và phi lý của đời người. Vì vậy Sartre đã kết luận: Con người
là một đam mê vô ích (L’ homme est une passion inutile).
Đây mới chỉ là phi lý đầu tiên
của triết học Sartre: Thựơng đế là một phi lý, tiếp theo còn nhiều nữa những
phi lý khác: Vũ trụ là một phi lý, và cuộc nhân sinh là một phi lý…
Chí Anh
Nguồn: chuaquansu.net
Xem thêm: ‘Sartre và Văn học’