Nô lệ

Loài người là kẻ nô lệ Cuộc đời. Nô lệ ấy lấp đầy ngày ngày với khốn khổ cùng đau thương và làm ngập lụt đêm đêm với sầu thảm và nước mắt.

Đã bảy ngàn năm kể từ ngày tôi ra đời cho tới nay. Suốt quãng thời gian đó, tôi chứng kiến những kẻ nô lệ Cuộc đời kéo lê xiềng xích nặng nề của họ.

Lang thang khắp mặt đất từ phương Đông sang phương Tây, và phiêu du trong Ánh sáng và Bóng tối của Cuộc đời, tôi đã thấy cuộc diễu hành của các nền văn minh, chuyển dịch từ nơi ánh sáng vào chốn tối tăm. Hết nền văn minh này tới nền văn minh khác rơi xuống địa ngục vì chúng đã để các linh hồn phải chịu sỉ nhục và quằn quại dưới ách nô lệ. Người mạnh bị chế ngự và khuất phục trong khi kẻ yếu quì gối bái lạy ngẫu tượng. Tôi đã đi theo loài người từ Babylon[1] tới Cairo, từ Ain Dour[2] tới Baghdad, và quan sát vết hằn của xiềng xích con người để lại trên cát. Tôi đã nghe các đồng cỏ và các thung lũng lặp đi lặp lại tiếng vọng buồn bã của các thời đại đổi thay.


Tôi đã đến thăm các đền đài và bàn thờ, vào các cung điện và ngồi trước ngai vàng. Tôi đã thấy kẻ tập việc nô lệ người thợ, người thợ nô lệ ông chủ, ông chủ nô lệ người lính, người lính nô lệ quan chức, quan chức nô lệ nhà vua, nhà vua nô lệ tư tế, tư tế nô lệ ngẫu tượng và ngẫu tượng chỉ là đất sét do Satan nặn ra rồi được dựng lên trên những gò đồi làm bằng sọ người.

Tôi đã vào dinh thự của kẻ giàu và viếng túp lều của người nghèo. Tôi đã thấy hài nhi bú sữa nô lệ trên ngực người mẹ, và trẻ em học cách phục tùng từ chữ A tới chữ Z.

Các thiếu nữ thụ động mặc những kiểu trang phục đúng theo qui định, và những người vợ co mình lại trong nước mắt trên giường ngủ khi phải ăn nằm như một cách giữ đúng lề luật vợ chồng.

Tôi đã dõi theo các thời đại từ bờ sông Hằng tới bờ sông Euphrates; từ cửa sông Nile tới các đồng cỏ Assyria; từ các đấu trường ở Athens tới các thánh đường ở La Mã, từ các khu nhà ổ chuột ở Constantinople[3] tới các cung điện ở Alexandria[4]. Khắp nơi mọi chốn, tôi đều thấy ách nô lệ di chuyển trong đám rước lộng lẫy và huy hoàng của vô minh.

Tôi đã thấy người ta hiến tế các thanh niên và thiếu nữ dưới chân ngẫu tượng và gọi nó là Thần linh; tưới rượu và nước hoa lên bàn chân của nó và gọi nó là Bà chúa; thắp hương trước ảnh tượng của nó và gọi nó là Ngôn sứ hoặc Tiên tri; quì gối bái lạy trước mặt nó và gọi nó là Pháp luật; chiến đấu tới chết cho nó và gọi nó là Lòng yêu nước; phục tùng ý nguyện của nó và gọi nó là Chiếc bóng của Thượng đế nơi trần thế; hủy diệt và san bằng nhà cửa cùng thể chế vì nó và gọi nó là Tình huynh đệ Bác ái; phấn đấu, trộm cắp và lao động cho nó và gọi nó là Của cải và Hạnh phúc; giết người vì nó và gọi nó là Bình đẳng.

Nô lệ sở hữu nhiều tên gọi khác nhau nhưng nó chỉ có một thực tại duy nhất. Nó mang rất nhiều diện mạo khác nhau nhưng nó được làm ra từ chỉ một nguyên tố. Thực tế, nó là một bệnh hoạn triền miên được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tôi đã thấy ách nô lệ mù lòa; nó cột chặt hiện tại của một dân tộc với quá khứ của cha ông, thúc giục họ qui thuận truyền thống cùng phong tục, và đặt linh hồn cổ lổ vào thân thể mới mẻ.

Tôi đã thấy ách nô lệ câm nín; nó cột chặt cuộc đời của người đàn ông vào người đàn bà hắn ghét cay ghét đắng hoặc nó đặt thể xác của người đàn bà vào giường của người đàn ông nàng oán hận sâu xa, vì thế, nó giết chết cả hai cuộc đời về mặt tinh thần.

Tôi đã thấy ách nô lệ điếc đặc; nó làm tàn tạ linh hồn cùng tâm hồn, khiến cho con người chỉ là tiếng vọng trống rỗng của một giọng nói và chiếc bóng đáng thương của một thân thể.

Tôi đã thấy ách nô lệ què quặt; nó đặt đầu cổ của con người nằm dưới sự khống chế của các bạo chúa, nó khiến những kẻ thân thể cường tráng nhưng tâm trí bạc nhược phục tùng con cái của Lòng tham để chúng sử dụng làm công cụ cho quyền lực của chúng.  

Tôi đã thấy ách nô lệ xấu xa; từ bầu trời bao la nó giáng xuống mặt đất; theo linh hồn các hài nhi, nó nhập vào các ngôi nhà Khốn khổ, nơi Túng thiếu sống bên cạnh Ngu dốt, và Sỉ nhục ở bên cạnh Tuyệt vọng. Và lũ trẻ ấy lớn lên thành những người khốn khổ, sống làm kẻ tội phạm rồi chết trong sự khinh miệt và chối bỏ y như những thứ chưa hề hiện hữu.

Tôi đã thấy ách nô lệ tinh vi; nó dán cho vật này vật nọ những nhãn hiệu khác với cái tên đích thực của chúng: nó gọi quỉ quyệt là trí tuệ, trống rỗng là kiến thức, nhu nhược là dịu dàng và hèn nhát là cự tuyệt một cách dũng cảm.

Tôi đã thấy ách nô lệ vặn vẹo; nó làm cho lưỡi của người yếu đuối máy động trong sợ hãi, không nói thẳng cảm xúc của mình, và nó khiến cho người ta giả vờ trầm ngâm nghĩ ngợi về cảnh ngộ cuộc đời nhưng rồi chỉ trở thành chiếc bao bố trống rỗng tới độ ngay cả một đứa bé cũng có thể xếp nó lại hoặc treo nó lên.

Tôi đã thấy ách nô lệ khúm núm; nó khiến cho quốc gia này tuân theo lề luật và phép tắc của quốc gia kia, và lưng càng ngày càng cong vòng.

Tôi đã thấy ách nô lệ vĩnh viễn; nó tấn phong con vua lên làm vua mà không cần phải lập được công trạng nào.

Tôi đã thấy ách nô lệ đen đủi; nó dán nhãn hổ thẹn và khinh ghét vĩnh viễn lên lũ con cái vô tội của kẻ tội phạm.

Và trong khi chiêm nghiệm về nô lệ, tôi còn thấy nó sở hữu sức mạnh tồi bại để tiếp tục hiện hữu và truyền nhiễm.

Khi càng ngày càng thấm mệt vì đi theo các thời đại băng hoại, và sức lực tiêu hao vì phải nhìn ngắm những cuộc diễu hành của các đám đông dân chúng bị ném đá, tôi dạo bước một mình vào Thung lũng Bóng tối Cuộc đời, nơi quá khứ ra sức ẩn núp trong tội lỗi còn linh hồn của tương lai thì đang cuộn mình yên nghỉ quá lâu. Ở đó, bên bờ Dòng sông Máu và Nước mắt bò ngoằn ngoèo như con rắn độc và quanh co như giấc mộng của kẻ tội phạm, tôi nhìn chằm chặp hư không và nghe ra tiếng thì thầm run rẩy của hồn ma các kẻ nô lệ.

Tới nửa khuya, khi quỉ thần ra khỏi chỗ núp, tôi thấy một bóng ma hấp hối, tái nhợt, đang khuỵu xuống và đăm đăm nhìn mặt trăng. Đi tới bên nó, tôi hỏi:

"Ngươi tên gì vậy?"

Chiếc bóng tái nhợt màu xác chết ấy trả lời:

"Tôi tên Tự do."

Nghe vậy, tôi hỏi:

"Vậy con cái của ngươi đâu?"

Mặt đẫm nước mắt, Tự do thở hổn hển và trả lời tôi với giọng yếu ớt:

"Một đứa bị hành quyết, một đứa bị mất trí, còn đứa thứ ba chưa ra đời."

Nó vừa khập khểnh bước đi vừa nói thêm nữa nhưng mắt tôi đã mờ hơi sương và tâm hồn tôi đang gào khóc nên không còn có thể nhìn thấy hoặc nghe ra nó nói điều gì./.

Kahlil Gibran - Nguyễn Ước dịch

Lời người dịch: Bản dịch này riêng tặng Thi sĩ Trần Đình Sơn Cước, nguyên Chủ tịch Ban Đại diện Sinh viên Luật khoa Huế, kẻ viết nên bài thơ “Lời Đáp Của Một Câu Hỏi Lớn”, vcv 2.5.2011. Nhớ thuở nào ở trường Luật, lòng cùng nhiệt huyết nhưng chẳng chung đường và cuối cùng, hẳn đang gặp nhau vì sung sướng thấy “qua tuổi sáu mươi” mà trên trán mỗi đứa vẫn phơi phới mây hồn nhiên.

Ghi chú:

[1] Babylon. Thủ đô của vùng Lưỡng hà địa cổ đại, kinh đô của đế quốc Babylonia, nay là Al Hillah, thuộc tỉnh Babil, nằm cách thủ đô Baghdad của Iraq 85 cây số về phía nam.

[2] Ain Dour. Tên một thành phố ở Morocco.

[3] Constantinople. Nay là Istambul, thủ đô của Thổ nhĩ kỳ.

[4] Alexandria. Tên một thành phố cảng của Ai cập, nơi từng có thư viện thời cổ lớn nhất thế giới.

Previous Post
Next Post