Cách giải thích về những “tội lỗi
bẩm sinh” mà con người phải nhận lấy ngay từ lúc sinh ra dường như không thuyết
phục đối với nhiều người. Họ thấy không có lý do gì để người ta phải chịu đựng
khổ đau chỉ vì những điều mà họ hoàn toàn không tự mình thực hiện! Nhưng nếu
cho rằng có những điều chính ta đã thực hiện trong quá khứ để dẫn đến sự khổ
hiện nay nhưng ta hoàn toàn không nhớ biết chỉ vì si mê thì nhiều người cũng
không tin nhận được, vì họ cho rằng không có sự chứng minh cụ thể nào cả!
Những nhà văn có óc không tưởng
đã phác họa về một thời kỳ trong tương lai mà bốn nỗi khổ của đức Phật nêu ra
sẽ có hai điều không còn nữa, đó là bệnh tật và già yếu. Nhưng mặc dù khoa học
hiện đại đã có rất nhiều những phát minh đột phá, người ta vẫn chưa bao giờ
chạm tới ngưỡng cửa của sự chấm dứt hoàn toàn bệnh tật hoặc làm cho con người
không còn chịu tiến trình lão hóa. Cứ mỗi khi tìm được phương pháp điều trị cho
một căn bệnh nan y nào đó, thì dường như là ngay lập tức sẽ thấy xuất hiện một
căn bệnh mới, còn bất trị hơn cả căn bệnh trước đó! Và như thế lúc nào con
người cũng phải luôn đứng trước những thách thức không thể vượt qua của bệnh
tật. Còn nói đến tiến trình già yếu thì càng không thấy có triển vọng gì tốt
đẹp! May mắn lắm thì người ta cũng chỉ hy vọng tìm ra một phương thuốc nào đó
làm cho con người có thể trẻ hóa được chừng năm mười năm tuổi cũng đã là phi
thường lắm rồi, đừng nói chi đến việc “cải lão hoàn đồng”!
Nhưng cho dù có vượt qua được sự
bệnh tật và già yếu, con người hầu như cũng không thể tìm ra phương pháp giải
quyết vấn đề mà con người vẫn xem là kẻ thù lớn nhất: Đó là sự chết! Ranh giới
giữa sống và chết bao giờ cũng hết sức mong manh, và con người chưa hiểu biết
được bao nhiêu về vấn đề này nên có thể nói là hoàn toàn bất lực trong việc tác
động vào nó. Cho dù người ta có thể làm ra những cỗ máy khổng lồ đủ sức san
bằng cả một hòn núi nhỏ, thì họ cũng không thấy có chút hy vọng gì có thể làm
cho một con chuột nhắt bé tí đã chết có thể sống lại dù chỉ trong chốc lát!
Trong khi chờ đợi một cách vô
vọng những tiến bộ của con người theo hướng này, và trong khi sự cải tạo thế
giới trên một bình diện hợp lý hơn vẫn còn chưa đem đến cho nhân loại sức khỏe,
sự an ổn và hạnh phúc, thì chúng ta vẫn luôn phải đương đầu với muôn ngàn sự
bấp bênh trong đời sống, những mối nguy cơ, tai họa và đau khổ luôn rập rình đe
dọa sự hạnh phúc và bình an trong tâm hồn chúng ta! Những tai họa thiên nhiên
như hỏa hoạn, bão lụt, dịch bệnh, động đất... kèm theo với những cuộc chiến
tranh do chính con người gây ra luôn sẵn sàng cướp đi đời sống an ổn của bất cứ
ai trong chúng ta. Đó chỉ là mới kể qua một vài sự tác động xấu từ bên ngoài,
còn nói về những yếu tố bên trong, tức là phần nội tâm, thì con người lại luôn
sẵn có vô số những sự yếu đuối, bất toàn, như lòng ích kỷ, ganh ghét, tham lam,
thù hận, si mê .v..v... đều là những nguồn gốc sinh ra sự đau khổ cho chính bản
thân mỗi người và cho những người chung quanh.
Trong những giây phút vui tươi ít
ỏi của cuộc đời, khi chúng ta cảm thấy trong lòng vui vẻ hân hoan vì tiếng nhạc
réo rắt du dương, hay khi nhìn thấy cảnh sắc muôn màu của lúc bình minh, chúng
ta thường cảm thấy rằng trong vũ trụ tự nhiên hẳn luôn sẵn có sự an vui và ẩn
giấu một ý nghĩa sâu xa thâm trầm nào đó, khác hơn là những nỗi khổ đau mà ta
phải thường xuyên gánh chịu. Tuy nhiên, khi chúng ta quay trở về cõi đời thực
tế với những sự va chạm phũ phàng, những thất vọng não nề cay đắng, thì chúng
ta không khỏi nêu ra nhiều câu hỏi như là:
– Ý nghĩa và mục đích của cuộc
đời này là gì?
– Ta là ai?
– Tại sao ta sinh ra ở đây?
– Rồi ta sẽ đi về đâu?
– Tại sao ta phải chịu đau khổ?
– Có những mối quan hệ gì giữa ta
và những người khác quanh ta?
– Giữa con người với cái sức mạnh
vô hình huyền bí trong cõi thiên nhiên bao phủ cuộc đời chúng ta có mối liên hệ
như thế nào chăng?
Những câu hỏi căn bản đó, nhân
loại đã từng nêu ra từ những thời đại quá khứ xa xăm. Nhưng ngày nào người ta
vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp thì tất cả những giải pháp tạm thời để làm
dịu bớt sự đau khổ, dầu là những phương tiện vật chất hay tinh thần, đều chỉ có
ý nghĩa vô cùng hạn chế và không thể giúp cho ta có được hạnh phúc thực sự.
Ngày nào mà vấn đề đau khổ của nhân loại về cơ bản vẫn chưa được giải quyết,
thì có thể nói là những nỗ lực của con vẫn chưa giải quyết được gì cả, vì tất
cả mọi thành tựu vật chất hay tinh thần xét cho cùng cũng không có ý nghĩa gì
khi mà người ta phải luôn oằn vai dưới gánh nặng khổ đau. Ngày nào mà trên thế
gian còn có một sinh vật nhỏ mọn tầm thường nhất đang quằn quại trong đau khổ
mà người ta chưa giải thích được nguyên nhân, thì xem như người ta chưa thực sự
giải thích được điều gì cả, và quan niệm triết lý của nhân loại về cuộc đời vẫn
còn là thiếu sót, bất toàn.
Từ những thời đại cổ xưa nhất,
loài người đã từng nêu ra những câu hỏi trên. Và càng suy ngẫm thì họ càng cảm
thấy rằng những sự tranh đấu vất vả và đau khổ của con người không hẳn là vô
ích và vô nghĩa như người ta có thể lầm tưởng. Bởi vì, trong khi những ý nghĩa
vật chất nhìn thấy được là hoàn toàn không có giá trị chân thật, thì sự đào
luyện và tiến hóa về tinh thần nhờ trải qua những kinh nghiệm khổ đau vẫn luôn
là một điều có thật.
Từ đó, người ta cảm thấy nhất
định phải một sự liên quan giữa con người với thế giới tâm linh hay phần tinh
thần phi vật thể. Chính từ những cảm nhận mơ hồ đầu tiên này mà người ta bắt
đầu tin vào sự hiện diện vô hình của những đấng thần minh trong những khu rừng
thẳm hoặc trên đồi cao, nơi gốc đa đầu làng hoặc giữa đồng hoang vắng vẻ...
Cũng từ đó, người ta tin rằng mỗi sinh vật, từ con người cho đến loài cầm thú,
đều có một linh hồn, và rằng linh hồn đó tuy phải chịu những đau khổ cùng với
thể xác, nhưng vẫn sẽ tồn tại sau khi chết trong một hình thức phi vật chất và
tiếp tục có một đời sống riêng của nó. Mặc dù những niềm tin như thế hầu hết
đều là vô căn cứ, nhưng nó lại thực sự xuất phát từ những cảm nhận rất thật của
con người trong suốt quá trình chiêm nghiệm về đời sống. Vì thế, những niềm tin
này hầu như đã đồng thời xuất hiện ở khắp nơi trên trái đất, bất chấp mọi sự
khác biệt về chủng tộc, địa lý...
Khi sự suy nghiệm của con người
về vấn đề này đã trải qua được những quãng thời gian rất dài thì những lý
thuyết khác nhau dần dần được phát sinh. Hoặc có người cho rằng ngoài cõi trần
gian đau khổ này mà loài người đang sống trong sự hỗn tạp pha lẫn cả điều lành
và điều dữ, điều thiện và điều ác, hẳn phải còn có một cảnh giới vô hình nào đó
để là nơi thưởng phạt công minh đối với những hành động thiện ác của con người
ở thế gian. Và xuất phát từ niềm tin đó mà người ta đã tin rằng có những cảnh
thiên đàng hay địa ngục. Tùy theo sự tưởng tượng, hình dung khác nhau ở từng
nơi mà người ta dựng nên những đấng cầm cân nảy mực khác nhau, hoặc miêu tả
những cảnh thiên đàng và địa ngục khác nhau, nhưng tựu trung vẫn giống nhau ở
điểm là khuyến thiện trừ ác và sự công bằng tuyệt đối của sự phán xét vô hình
đó.
Những điều tin tưởng và giải
thích như trên đã từng được nêu ra rất nhiều. Có những cách giải thích hãy còn
giản dị thô sơ, chất phác, nhưng cũng có những cách giải thích tinh tế, sâu sắc
hơn, và cũng có những cách giải thích được mọi người cho là hợp lý, thuyết
phục. Và chính nhờ sự tin tưởng vào những giải thích được chấp nhận đó mà con người
vẫn có thể tiếp tục sống và đương đầu với những nỗi khó khăn, đau khổ giữa cuộc
đời, vì sự thật là nếu không có những niềm tin đó thì cho dù con người có can
đảm đến đâu cũng không thể nào vượt qua được những cơn khủng hoảng. Có người
tin tưởng ở Đức Mahomet, có người tin tưởng ở Đức Phật, hoặc Chúa Jesus, hay
Đức Krishna, hoặc một hình tượng tôn giáo nào khác nữa...
Có nhiều người tin rằng đời người
có thể giải thích bằng một lý do duy nhất, đó là ý nghĩa của sự sống. Một số
người khác không cần bận tâm tìm biết lý do gì cả, mà chỉ tận hưởng sự vui
sướng, khoái lạc trong hiện tại. Đối với những người sinh trưởng trong nền giáo
dục và tín ngưỡng đạo Gia Tô, thì sự giải thích về đời người và những sự đau
khổ của cuộc đời thường là như thế này:
– Con người có một linh hồn và
linh hồn vốn bất diệt; sự đau khổ là một thử thách đưa đến cho chúng ta, thiên
đàng hay địa ngục là những điều thưởng phạt tùy theo cách hành động và cư xử
của chúng ta trên thế gian.
Những người chấp nhận sự giải
thích đó không hề nói rằng họ có đủ bằng chứng; vì đó chỉ là sự giải thích mà
họ được hấp thụ từ cha mẹ và từ các giáo sĩ; và chính những vị này cũng đã hấp
thụ từ những bậc phụ huynh và các giáo sĩ trong thế hệ của họ, rồi cứ như thế
đi ngược dòng thời gian cho đến khi người ta tìm thấy nguyên ủy mọi sự nằm
trong một quyển sách gọi là Kinh Thánh (Bible), và một người đã thiết lập, củng
cố niềm tin ấy tên là Jesus.
Hầu hết mọi người đều đồng ý rằng
bộ sách này thật là hay tuyệt, và Đức Jesus, cho dù là một con người hay thực
sự là con của Chúa Trời, vẫn phải xem là một nhân vật phi thường. Tuy nhiên, kể
từ thời kỳ Phục Hưng (Renaissance) cho đến nay, người Tây phương ngày càng trở
nên hoài nghi đối với những tín điều dựa trên niềm tin không được xác tín, dẫu
cho đó là tin vào một quyển sách hay một con người. Bất cứ tín điều nào không
thể chứng minh được bằng các phương tiện khoa học đều gây ra một sự hoài nghi
mỗi lúc một tăng thêm.
Nhà thiên văn học Ptolemy
(Ptolémée)[1] nói rằng mặt trời xoay quanh trái đất; và đó là điều mà Hội Thánh
Gia Tô đã chấp nhận và truyền dạy. Tuy nhiên, nhà Thiên văn Copernic[2] đã phát
minh ra những khí cụ thiên văn học để chứng minh điều ngược lại, rằng chính
trái đất xoay chung quanh mặt trời!
Triết gia Aristote nói rằng nếu
người ta làm rơi cùng lúc hai vật có trọng lượng khác nhau từ trên cao, vật
nặng hơn sẽ rơi xuống đất trước, và Hội Thánh đã hoàn toàn chấp nhận nền triết
học cùng sự phát minh khoa học của Aristote. Tuy thế, với một cuộc thí nghiệm
giản dị từ trên đài nghiêng ở thành phố Pise, Galileo[3] đã chứng minh rằng hai
vật có trọng lượng khác nhau vẫn có thể rơi xuống đất cùng lúc nếu chúng có thể
tích khác biệt tương ứng.
Trong Kinh Thánh có nhiều đoạn
cho rằng trái đất vốn là một mặt phẳng rộng; tuy nhiên Christophe Colomb và
Magellan cùng nhiều nhà thám hiểm khác nữa của thế kỷ XV đã làm đảo ngược giả
thuyết trên đây bằng những chuyến du hành trên mặt biển, khởi hành từ một điểm
và đi thẳng theo hướng đông nhưng cuối cùng lại đến được điểm khởi đầu, chứng
tỏ rằng họ đã đi theo một đường tròn.
Những sự chứng minh trên đây cùng
nhiều chứng minh khác nữa đã dần dần chứng tỏ rằng những giả thuyết dựa trên
niềm tin vô căn cứ từ thời xưa không chắc gì là đúng. Do đó đã nảy sinh quan
niệm khoa học và óc hoài nghi phán đoán của người thời nay.
Tuy nhiên, có một thực tế là
trong sự tranh đấu để sống còn con người không thể tránh khỏi sự đau khổ. Sự
đau khổ này, dường như người ta không tìm ra lý do nào để giải thích ngoài việc
phải thừa nhận là nó không có mục đích gì cả! Lẽ nào người ta lại không thể có
một cuộc sống không phải chịu đau khổ? Và những gì ta biết về sự chết cho đến
nay vẫn chỉ là “một sự tan rã của những phân tử hóa học vật chất”, ngoài ra ta
không còn biết gì hơn nữa.
Như vậy, với khuynh hướng khoa
học, người ta đã thay thế niềm tin vào Kinh Thánh hay các vị giáo chủ bằng niềm
tin vào năm giác quan và các thiết bị khoa học!
Với những ống kính hiển vi, viễn
vọng kính, quang tuyến X, máy radar và những phát minh tối tân khác, khoa học
đã nới rộng tầm hoạt động của năm giác quan đến mức vượt xa trước đây, nhưng
người ta vẫn dựa vào sự nhận xét bằng năm giác quan, tức thị giác, thính giác,
vị giác, khứu giác và xúc giác như là nền tảng của mọi lý luận khoa học.
Tuy nhiên, trải qua vài chục năm
gần đây, người ta đã trở nên phức tạp hơn và hoài nghi hơn đối với những điều
họ hiểu biết hoặc tưởng rằng mình đã hiểu biết. Những khí cụ khoa học mà người
ta phát minh ra đã chỉ cho họ thấy một cách mỉa mai rằng những giác quan của
con người thật vô cùng thiếu sót, bất toàn và không thể giúp chúng ta hiểu biết
vũ trụ một cách thật sự đầy đủ, chính xác. Những luồng sóng Hertz,[4] chất
phóng quang, nguyên tử lực... đó là chỉ mới kể có một vài hiện tượng khoa học
của thời buổi hiện đại, đã chứng minh một cách rõ ràng rằng chung quanh chúng
ta có những luồng âm ba rung động và những mãnh lực vô hình; và những phân tử
nhỏ bé nhất của vật chất đều là những kho chứa đựng năng lực, hàm súc tiềm tàng
một sức mạnh kinh khủng mà con người trước đây không thể tưởng tượng nổi.
Chúng ta biết rằng những giác
quan như tai, mắt... mà chúng ta dùng để tiếp xúc với ngoại giới, cũng ví như
những cửa sổ nhỏ hẹp của căn nhà bé nhỏ là xác thân của chúng ta. Sự nhạy cảm
của con mắt chúng ta đối với ánh sáng giúp chúng ta tiếp nhận chỉ có một phần
nhỏ những luồng âm ba rung động của ánh sáng. Sự thụ cảm của lỗ tai ta đối với
âm thanh chỉ giúp ta tiếp nhận một biên độ vô cùng nhỏ hẹp trong biển âm thanh
rộng lớn của vũ trụ.
Nhiều loại thú cầm, chim muông,
côn trùng, sâu bọ có những thị giác, thính giác và khứu giác khác hẳn loài
người; bởi đó vũ trụ của chúng bao hàm nhiều sự vật mà chúng ta từ lâu không
nhận biết hoặc không thể nhận xét rõ. Thật đáng ngạc nhiên khi con người vốn tự
hào về trí thông minh đứng đầu trong muôn loài nhưng lại thua kém một số loài
cầm thú, chim muông và sâu bọ về năng lực của giác quan để biết về vũ trụ bên
ngoài. Hơn nữa, vì phải phụ thuộc vào những công cụ, phương tiện khoa học mà
chính trí óc siêu việt thông minh của họ đã phát minh, nên con người không thể
tự mình nhận biết và quan sát mọi sự vật trong vũ trụ mênh mông rộng lớn.
Hãy tưởng tượng rằng chúng ta có
thể nới rộng tầm hoạt động và nhận biết của giác quan đến mức nhạy cảm hơn đối
với ánh sáng và âm thanh, dẫu rằng chỉ hơn mức bình thường một phần nào thôi.
Phải chăng khi ấy ta sẽ nhận biết được nhiều sự vật mà trước kia ta không hề
nghe, không hề thấy?
Hoặc nếu có một người nào đó bẩm
sinh đã có được những giác quan phi thường, với một tầm nhận biết rộng lớn hơn,
phải chăng điều tất nhiên là người này sẽ có thể nghe thấy, nhận biết những sự
vật mà chúng ta không thấy, không nghe? Với một mức độ khác biệt nào đó, phải
chăng người ấy có thể nghe, thấy và nhận biết vượt qua cả những khoảng không
gian xa xôi, tương tự như máy vô tuyến truyền thanh hoặc truyền hình?
Đứng trước thế giới mênh mông vô
tận với biết bao điều còn bí ẩn mà những khí cụ khoa học tối tân của thế kỷ hai
mươi đã hé mở cho chúng ta nhận biết phần nào, thì người ta buộc phải nhìn nhận
khả năng xảy ra những điều nói trên. Và nếu nhìn ngược dòng lịch sử loài người,
chúng ta sẽ thấy đã từng có nhiều trường hợp đặc biệt được ghi chép về những
khả năng nhận biết phi thường của một số người. Một trong số những người đó là
ông Swedenborg,[5] nhà bác học trứ danh của thế kỷ 18. Ông này có được một năng
lực nhận biết rất phi thường. Người ta đều biết rõ một chuyện về năng lực phi
thường của ông, vì chuyện này được rất nhiều người chứng kiến, trong số đó có
cả nhà triết học Emmanuel Kant.
Một buổi chiều vào khoảng sáu
giờ, ông Swedenborg đang ngồi dùng cơm với vài người bạn ở thành phố
Gothenburg, bỗng nhiên ông giật mình và nói rằng một cơn hỏa hoạn lớn đang xảy
ra ở Stockholm là chỗ ông ở, cách đó độ năm trăm cây số. Sau đó một lát, ông
tuyên bố rằng ngọn lửa đã thiêu hủy ngôi nhà của một người láng giềng và hăm
dọa cháy lan đến ngôi nhà của ông. Đến tám giờ, cũng chiều hôm đó, ông cho
biết, với một giọng nói đã trấn tĩnh, rằng ngọn lửa đã được dập tắt ở khoảng
cách nhà ông độ vài ba gian nhà khác.
Hai ngày sau, những lời của ông
Swedenborg đã được xác nhận bằng những bài tường thuật về cuộc hỏa hoạn bộc
phát đúng vào lúc ông giật mình và có cảm giác đầu tiên về cơn tai biến này!
Đây không phải là trường hợp duy
nhất, tiểu sử của nhiều nhân vật tên tuổi cũng ghi chép hàng trăm trường hợp
tương tự, trong số đó có những người nổi tiếng như Mark Twain, Abraham Lincoln,
St. Saens.v.v... Trong vài trường hợp, chính những người thân quyến của họ đã
có lúc nhìn thấy thình lình những hình ảnh lạ lùng về những sự việc xảy ra ở
cách rất xa, hoặc sẽ xảy ra trong nhiều tháng hay nhiều năm về sau, với đầy đủ
chi tiết.
Nói về trường hợp ông Swedenborg
thì năng khiếu thần nhãn của ông từ đó trở nên một thứ giác quan mạnh mẽ phi
thường và liên tục. Nhưng trong phần nhiều những trường hợp khác, năng khiếu đó
dường như chỉ biểu lộ trong một lúc nhất định khi đương sự tạm thời rơi vào một
trạng thái xuất thần.
Người Tây phương thường có khuynh
hướng đón nhận những sự việc kể trên với một thái độ hoài nghi và thậm chí với
ít nhiều cử chỉ khinh thường. Tuy nhiên, nay đã đến lúc mà người ta không thể
nhìn vào những hiện tượng đó một cách khinh rẻ như thế được nữa. Đối với những
người có một tinh thần cởi mở, sẵn sàng tìm hiểu những hiện tượng lạ lùng, đối
với những người thông hiểu các trào lưu khoa học và những nhu cầu của thế hệ,
thì bất cứ sự việc gì có liên hệ đến những khả năng lạ lùng huyền bí của con
người đều có tánh cách lý thú và có một tầm quan trọng nhất định.
Trong số những nhà thông thái có
tầm kiến thức rộng rãi và thừa nhận rằng những hiện tượng thần bí, siêu nhiên
đáng được nghiên cứu bằng phương pháp khoa học, cũng như đã ra công sưu tầm về
những hiện tượng đó, có bác sĩ J. B. Rhine,[6] giáo sư trường Đại Học Duke. Từ
năm 1930, tiến sĩ Rhine và những người cộng sự
đã nghiên cứu sâu về những hiện tượng thần giao cách cảm và năng khiếu thần
nhãn trong con người.
Bằng những cuộc thí nghiệm được
kiểm soát chặt chẽ và tuân theo một phương pháp khoa học đặc biệt, tiến sĩ Rhine đã khám phá được một điều là trong phòng thí
nghiệm, có nhiều người đã biểu lộ những khả năng cảm xúc bằng giác quan một
cách phi thường. Người ta có thể tìm thấy những chi tiết về phương pháp thí
nghiệm và những kết quả sưu tầm của tiến sĩ Rhine
trong quyển sách nhan đề “The Reach of the Mind” (Tầm hoạt động của trí não” do
chính ông xuất bản năm 1947 tại Hoa Kỳ.
Những nhà sưu tầm khác như
Warcollier ở Pháp, Kotik ở Nga và Tichner ở Đức, với những phương pháp thí nghiệm
tương tự, cũng đã đi đến những kết luận giống như của tiến sĩ J. B. Rhine.
Những bằng chứng khoa học hiển
nhiên đã giải tỏa mọi điều nghi ngờ về tính chất có thật của những hiện tượng
thần giao cách cảm và năng khiếu thần nhãn của con người. Tuy thế, cho đến nay
khoa học chỉ mới chứng minh được rằng hiện tượng thần nhãn là một điều có thật,
còn việc nó hoạt động ra sao và phát sinh từ những yếu tố nào thì người ta hoàn
toàn không biết gì cả. Vì thế, người ta vẫn chưa thể vận dụng được năng khiếu
đó trên địa hạt thực tế.
Thử tưởng tượng, nếu con người có
thể tạo ra được cái năng khiếu phi thường đó, thì nó sẽ giúp ta nhìn thấy được
những gì xảy ra trong không gian mà không cần sử dụng đến cặp mắt thường. Khi
đó, con người sẽ có được một phương thức mới cực kỳ hiệu quả để thu hoạch những
điều hiểu biết về vũ trụ.
Trải qua nhiều thế kỷ, con người
đã làm được nhiều công trình lớn lao. Sự khôn ngoan khéo léo đã giúp ta chinh
phục một phần nào không gian và tác động rất nhiều vào thế giới vật chất. Nhưng
dù có được sự khôn ngoan khéo léo đó, xét cho cùng thì chúng ta vẫn là một sinh
vật yếu đuối và bất toàn. Mặc dù có được những thành công nhất định trên địa
hạt vật chất, con người vẫn còn phải bất lực trên rất nhiều lãnh vực. Mặc dù đã
thu hoạch được những kết quả nhất định trên các lãnh vực nghệ thuật, văn hóa và
khoa học, con người vẫn chưa tìm ra ý nghĩa và mục đích của sự đau khổ mà mỗi
người đều phải chịu đựng từ khi sinh ra cho đến lúc từ giã cõi đời.
Trong thời gian qua, con người đã
tìm ra những bí mật về năng lượng nguyên tử, điều đó là một bước đột phá trong
việc kiểm soát thế giới vật chất. Nhưng có lẽ phải nhờ vào chính những sự khám
phá gần đây về khả năng cảm xúc bằng giác quan siêu đẳng của con người và những
mối liên quan lạ kỳ giữa ý thức và tiềm thức, con người mới có thể tiến sâu hơn
nữa vào lãnh vực nội tâm của chính mình.
Sau nhiều thế kỷ dọ dẫm tìm tòi,
có lẽ sau cùng người ta sẽ tìm ra những câu giải đáp thỏa đáng cho những điều
bí ẩn quan trọng của đời người, chẳng hạn như những lý do vì sao con người sinh
ra ở thế gian và mục đích cùng ý nghĩa của sự đau khổ mà con người phải chịu
đựng là gì.
Trích ‘Những bí ẩn của cuộc đời’
Nguồn: rongmotamhon.net