Thủ phạm nghĩ gì?
Dù tội ác có thể tồn tại rõ ràng
trong tâm trí của nạn nhân thì bạn không thể chỉ dựa vào một mình sự giải thích
của nạn nhân để giải thích hoặc hiểu về tội ác. Thủ phạm của những tội ác
thường là người bình thường với những động cơ, lý do và sự hợp lý hóa của riêng
họ về những gì họ làm.
Những lý thuyết chỉ áp dụng với
những kẻ giết người hàng loạt thường không hữu ích trong việc hiểu được con
người nói chung, vì ít hơn 1% của 1% của dân số là những kẻ giết người hàng
loạt. Vì những sự kiện hằng ngày tương đối dễ dàng để nghiên cứu, một người có
thể nghiên cứu chúng rất kỹ lưỡng và đi đến những kết luận vững chắc. Ngược
lại, những thủ phạm của những tội ác khác thường, hiếm có thì rất khó nghiên
cứu: họ thường ở trong tù hoặc lẩn trốn ở đâu đó; thường không có đủ số lượng
có sẵn để làm một mẫu thống kê; và những khó khăn về kỹ thuật, pháp luật cho
các nhà nghiên cứu.
Để nghiên cứu cách những thủ phạm
suy nghĩ, tôi và cộng sự đã thiết kế một nghiên cứu để xem mọi người sẽ nói như
thế nào về một điều gì đó mà họ đã làm mà người khác nghĩ rằng ít nhất họ đã
làm sai. Chúng tôi yêu cầu họ viết một bài giải thích về một tai nạn gần đây mà
họ đã làm điều gì đó khiến một ai đó rất tức giận. Và chúng tôi cũng yêu cầu họ
viết một bài giải thích về một sự kiện mà ai đó đã làm họ tức giận. Mỗi người
viết một câu chuyện “thủ phạm” và một câu chuyện “ nạn nhân”. Và chúng tôi phát
hiện thấy những sự khác biệt chủ chốt khi chúng ta chuyển từ quan điểm của nạn
nhân sang quan điểm của thủ phạm:
- Đối với thủ phạm thì những hành
vi dường như ít xấu xa, sai trái hơn so với nạn nhân. Các nạn nhân có xu hướng
nhìn sự việc theo kiểu hoàn toàn đúng hoặc sai, trắng hoặc đen; còn các thủ
phạm nhìn theo kiểu màu xám. Nhiều thủ phạm thú nhận họ đã làm một việc gì đó
sai phần nào, nhưng họ cũng nghĩ rằng không thể đổ lỗi hoàn toàn cho họ và hành
vi đó không xấu như nạn nhân khẳng định. Khẩu hiệu đầu tiên của thủ phạm là “Nó
không quá xấu”, khẩu hiệu thứ 2 là “Tôi không thể kiểm soát được.” Từ quan điểm
của thủ phạm, những nhân tố ngoại cảnh vượt quá sự kiểm soát của họ và đóng một
phần rất lớn. Những nguyên nhân ngoại cảnh đó làm giảm trách nhiệm của họ. Ví
dụ, những lính Quốc xã nói “Tôi chỉ tuân theo mệnh lệnh”. Những lý do tương tự
vẫn tồn tại thời nay.
- Sự khác biệt quan trọng khác
giữa nạn nhân và thủ phạm là khoảng thời gian của những câu chuyện của họ. Nạn
nhân sử dụng một khoảng thời gian rất dài. Khi mô tả về điều gì đã xảy ra với
họ cách đây rất lâu, họ thường cung cấp bối cảnh dẫn đến vụ tai nạn, mô tả
những hậu quả và thậm chí liên quan đến câu chuyện hiện tại của họ. Nạn nhân có
thể tiếp tục lải nhải, nghiền ngẫm về những tổn thương tâm lý và đau khổ của họ
hàng thập kỷ. Những xã hội và những nền văn hóa có thể nuôi dưỡng mối đau
thương hàng thế kỷ. Phương châm của nạn nhân là “Không bao giờ quên.”
- Ngược lại, phương châm của thủ
phạm là “Để quá khứ là quá khứ.” một lý do quan trọng cho sự khác nhau về
khoảng thời gian giữa nạn nhân và thủ phạm là những lợi lạc mà thủ phạm có được
nhìn chung nhỏ hơn so với những mất mát của nạn nhân, và do đó thủ phạm ít có
lý do gì để tái tạo lại những kí ức. Sự kiện tác động đến nạn nhân lớn hơn so
với thủ phạm và do đó nó không tránh khỏi kéo dài trong trí nhớ.
- Xem người khác tấn công mình. một
phát hiện quan trọng đó là xu hướng của thủ phạm xem hành vi của người khác như
là tấn công họ. Những kẻ bắt nạt, những kẻ đánh vợ và những người bạo lực khác
có xu hướng nghĩ rằng người khác đang tấn công hoặc xúc phạm họ ngay cả khi
người khác không diễn giải theo cách như vậy. Những nghiên cứu về bạo lực gia
đình: những người đàn ông đánh vợ có xu hướng giải thích những hành động vô hại
hoặc mơ hồ của vợ như sự tấn công cá nhân có chủ ý. Kiểu suy nghĩ như vậy phổ
biến ở những anh chồng bạo hành. Họ có xu hướng nghĩ rằng lòng tự trọng của họ
bị tấn công bất cứ khi nào có bất kỳ sự bất đồng hoặc xung đột nào. Người chồng
bạo hành có xu hướng diễn giải nhiều hành động của vợ như sự tấn công lòng tự
trọng của chồng.
Như vậy, chúng ta có thể dự đoán
người nào có khả năng trở nên nguy hiểm hoặc bạo lực. Những người quá nhạy cảm
thường nghĩ rằng lòng tự trọng của họ bị tấn công và họ có thể trở nên nguy
hiểm. Sự quá nhạy cảm này trước những sự xúc phạm cũng làm ta có thể hiểu về
những bạo lực dường như vô nghĩa. một người đàn ông có thể đánh bạn gái hoặc một
người lạ ở quán bar dường như là một kẻ hung ác trong mắt những người quan sát.
Nhưng trong mắt anh ta, anh ta chỉ đang bảo vệ bản thân trước một sự tấn công.
Nhiều người bạo lực tin rằng những hành động của họ là chính đáng.
Ai đúng?
Tội ác nằm trong đôi mắt người
nhìn. Rõ ràng là nạn nhân nhìn sự việc rất khác và tồi tệ hơn so với thủ phạm.
Nhưng sẽ không an toàn khi ta xem câu chuyện của nạn nhân là sự thật khách
quan. Bạn không thể dựa vào hoặc là câu chuyện của nạn nhân hoặc câu chuyện của
thủ phạm; thực tế có thể nằm ở đâu đó ở giữa.
Thủ phạm không nhìn sự việc một
cách đơn giản, hoàn toàn trắng hoặc đen theo cách mà những nạn nhân thích. Đối
với thủ phạm, những sự kiện là phức tạp và mơ hồ về mặt đạo đức. Họ có thể xem một
số việc họ làm là sai nhưng họ cũng xem họ bị ảnh hưởng như thế nào bởi những
yếu tố ngoại cảnh, bao gồm cả những yếu tố vượt tầm kiểm soát của họ. Trong
những trường hợp khác, các thủ phạm xem bản thân là hành động theo một cách
hoàn toàn đúng và chính đáng. Có lẽ quan trọng nhất là những thủ phạm thường có
những lý do và động cơ có lý đối với họ. Nạn nhân có thể xem những hành vi vô
cớ đó là tội ác, nhưng thủ phạm hiếm khi nhìn hành động của họ theo cách đó.
Chúng ta không thể dựa vào nạn nhân để nói cho chúng ta biết lý do tại sao thủ
phạm đã làm những gì họ làm.
4 nguồn gốc của cái ác
1. Tham lam, thèm khát và tham
vọng: Cái ác như một phương tiện để đạt được một mục đích
Một số tội ác nảy sinh trực tiếp
từ khao khát đạt được vật chất. Khao khát tiền, quyền lực và niềm vui bắt nguồn
sâu sắc trong tâm hồn con người. Vô số phương tiện được dùng để theo đuổi những
khao khát đó và một số trong số chúng là tội ác.
Tiền, niềm vui và quyền lực không
phải vốn sẵn là xấu hoặc theo đuổi chúng là có tính hủy hoại. Cái ác được dùng
như là phương tiện để theo đuổi những điều trên. Do đó kết tội những mục đích
nhìn chung là ngu ngốc. Câu hỏi quan trọng là: Điều gì làm con người chọn
phương tiện cái ác hơn những phương tiện khác- được chấp nhận hơn? Câu hỏi này
dẫn đến trung tâm của tội phạm: tại sao một ai đó đi cướp của người khác thay
vì kiếm được nó thông qua những phương tiện chính đáng hơn?
Câu trả lời là phương tiện cái ác
thường có vẻ như dễ dàng hơn những phương tiện hợp pháp khác. Trong cuốn sách
“A general theory of crime”- Michael Gottfredson và Travis Hirschi chỉ ra, hầu
hết các tội phạm đòi hỏi ít kỹ năng, sự kiên nhẫn, bằng cấp hoặc lên kế hoạch.
Để kiếm tiền thông qua phương pháp hợp pháp, một người thường phải có bằng cấp
và những khả năng, tất cả những điều đó tốn nhiều năm đi học hoặc huấn luyện.
Quan điểm về tính hiệu quả: những
phương tiện cái ác được sử dụng vì mọi người tin là chúng hiệu quả hơn những
phương tiện khác. Nó dường như là con đường tắt để lấy được cái một người muốn.
Nó hứa hẹn đạt được một mục tiêu được khao khát và trong thời gian ngắn. Điều
đó mang lại một câu hỏi trung tâm khác: Liệu những phương tiện cái ác có hiệu
quả?
Câu trả lời không đơn giản. Câu
trả lời dường như phụ thuộc vào thời gian. Tội phạm có thể đem lại những lợi
ích trong ngắn hạn, nhưng về lâu dài hầu hết tội phạm không giàu. một nghiên
cứu gần đây kết luận rằng số tiền trung bình từ phạm tội của một đàn ông da đen
trẻ ở Boston là
từ 10-20$ mỗi giờ, trong khi tiền lương sau thuế hợp pháp chỉ khoảng 5.6$. Do
đó, tội phạm (đặc biệt là bán ma túy) có vẻ được trả nhiều tiền hơn. Nhưng nếu
kể cả nguy cơ bị ngồi tù được tính toán thì sự vượt trội về kinh tế của một
công việc phạm tội có thể bị loại bỏ hoặc thậm chí ngược lại. Câu hỏi về tính
hiệu quả của cái ác từng được xem xét bởi rất nhiều học giả, bằng cách xem xét
những kết quả của những kiểu phạm tội cụ thể. Và họ dường như đều đi đến một
kết luận giống nhau: cái ác không hiệu quả, đặc biệt khi nhìn từ quan điểm đem
lại sự thỏa mãn lâu dài.
Những phần thưởng từ trộm cắp
Chúng ta bắt đầu với thu nhập
tiền bạc từ ăn trộm. Nhiều tội phạm đã cố gắng nhưng không thành công. Ngay cả
trong những vụ phạm tội thành công thì tiền lương từ việc phạm tội vẫn khá nhỏ.
Theo báo cáo của các nạn nhân, thiệt hại trung bình từ trộm cắp là khoảng 80$.
Thiệt hại trên 250$ tương đối hiếm. Nhiều vật bị trộm mất đi phần lớn giá trị
của chúng khi bán lại. Chúng ta đã thấy một khuôn mẫu chung mà ở đó thiệt hại
của nạn nhân lớn hơn lợi lạc của thủ phạm.
Ngay cả những tên trộm may mắn
kiếm được nhiều tiền thì số tiền cũng nhanh chóng hết. Katz đã phỏng vấn nhiều
tội phạm và họ thường tiêu tiền cho quần áo, phụ nữ, đánh bạc, thức ăn và những
thú vui khác và tiền nhanh chóng hết. Họ không đầu tư vào vào bất động sản hoặc
những quỹ đầu tư hoặc bất cứ thứ gì sẽ sinh lợi về lâu dài.
Tội phạm giết người
Thường có 2 kiểu giết người.
(1) Hai người đã biết nhau đang
tranh cãi, thường bắt đầu từ một số vấn đề dường như nhỏ nhặt, tầm thường.
Tranh cãi leo thang thông qua những câu từ tục tĩu hoặc bạo lực nhỏ. Cuối cùng,
một người rút súng hoặc dao và giết người kia. Kiểu bạo lực này có hiệu quả
không? Thủ phạm có thể thắng cuộc tranh cãi, nhưng cái giá phải trả về lâu dài
có xu hướng lớn hơn so với cái lợi của chiến thắng, đặc biệt nếu tranh cãi chỉ
vì một vấn đề tầm thường. Người ta thường thấy hối hận sau khi đã giết hoặc làm
tổn thương một ai đó.
(2) Liên quan đến trộm cướp gặp
kháng cự bất ngờ của nạn nhân thúc đẩy thủ phạm dùng bạo lực để đạt được điều ý
muốn, dẫn đến cái chết của nạn nhân.
2. Con người có thể có được niềm
vui từ việc gây tổn thương cho người khác?
Sadims: tính thích thú những trò tàn ác.
Thuật ngữ đó được dùng để mô tả
việc có được niềm vui và sự thỏa mãn từ việc gây tổn thương cho người khác cũng
như khao khát có được niềm vui đó. Điều không may là thuật ngữ sadism đôi lúc
cũng được dùng để mô tả về một kiểu hành vi tình dục liên quan đến việc thống
trị người khác.
Cảm thấy như thế nào khi gây tổn thương cho người khác?
Hầu hết mọi người đều có một số
kinh nghiệm với việc gây tổn thương cho người khác. Nó thường không phải là một
trải nghiệm thú vị, trái ngược với lý thuyết sadism. Hầu hết mọi người cảm thấy
khó chịu một cách sâu sắc khi gây đau đớn hoặc gây ra cái chết cho người khác.
Niềm vui của sự tàn ác thường thấy trong những bộ phim, ở đó những kẻ ác cười
khi bắn giết, cưỡng hiếp hoặc tra tấn những nạn nhân bất lực, hầu hết biến mất
khi bạn xem những câu chuyện và những kinh nghiệm của thủ phạm. Ví dụ về những
người lính trong thế chiến 2 cảm thấy khó khăn khi bắn kẻ địch, những lo lắng,
trầm cảm, những cơn ác mộng ám ảnh....
Tại sao họ cười?
Satan cười khi con người đau khổ.
Những bộ phim giải trí đều mô tả về những kẻ hung ác cười thích thú trước nỗi
đau của những nạn nhân của chúng. Chúng ta đã thấy những phản ứng khi gây tổn
thương cho người khác thường bao gồm sự ghê tởm, trầm cảm và đồng cảm. Nó rất
đối lập với sự vui thích.
Vấn đề ở đây là các nạn nhân đôi lúc
thông báo rằng những kẻ tra tấn họ đang cười. một lý do chính cho việc nhấn
mạnh tiếng cười đó là điều hoang đường của cái ác thuần túy (pure evil). Liệu
tiếng cười chứng minh sự tồn tại của tính thích thú những trò tàn ác? Và nếu
không, tại sao người ta cười trước nỗi đau khổ và cái chết của người khác?
Kết luận của riêng tôi đó là
tiếng cười không phải là bằng chứng thuyết phục cho niềm vui trước những trò
tàn ác, dù nó tiết lộ về cảm xúc của thủ phạm. Con người có thể cười vì nhiều
lý do khác nhau. Quả thật, cười là một phòng vệ chống lại một cú sốc hoặc một
nhiệm vụ ghê tởm. Ví dụ, một phần quan trọng của đào tạo y khoa là quen dần với
việc nhìn thấy những cơ thể bị thương, và các sinh viên y nổi tiếng về những
trò đùa và những câu chuyện cười về cơ thể của xác chết. Sự hài hước đó giúp
vượt qua những phản ứng thông thường trước cú sốc và sự ghê tởm mà một bác sĩ
không thể chịu đựng.
Một thực nghiệm của Bella dePaulo
và Matthew Ainsville quay lại những phản ứng trên khuôn mặt của con người trước
một loạt cảnh, và một trong những cảnh đó có một tấm ảnh một nạn nhân vụ tai
nạn gớm guốc. Đàn ông thường đáp ứng lại cảnh tượng đó với một nụ cười (dù phụ
nữ thì không). Đó không phải là một nụ cười của niềm vui mà nó cho thấy sự bối
rối và một nỗ lực tạo khoảng cách giữa bản thân với cú sốc hoặc phản ứng khó
chịu.
Tiếng cười có thể xuất hiện từ sự
lo lắng hoặc sự không chắc chắn về việc phản ứng như thế nào. Trong những thực
nghiệm của Milgram, một số người tham gia đã cười khi họ tuân theo yêu cầu để
cho điện giật những người khác khi những người khác đập từơng và la hét yêu cầu
họ dừng lại. Milgram nhất trí rằng tiếng cười này không phải là một dấu hiệu
của niềm vui hoặc sự ngạc nhiên mà tiếng cười phản ánh một số nỗ lực để đương
đầu với sự căng thẳng, khó chịu của một người trước một tình huống khó chịu mà
ở đó họ gây tổn thương cho một ai đó. Một phản ứng tương tự có thể là bằng
chứng khi con người đôi khi cười để phá tan sự căng thẳng, trong thời điểm cảm
thấy lo lắng hoặc không chắc chắn hoặc thậm chí trong suốt một bộ phim đáng sợ.
Nhưng các nạn nhân thì không phân biệt được sự khác nhau giữa những tiếng cười,
đặc biệt khi tiếng cười sẽ làm tăng cường sự giải thích của họ cho thấy những
kẻ đang làm họ đau khổ là độc ác.
Con người muốn xem phim bạo lực.
Sản xuất phim để kiếm tiền và do đó những nhà làm phim làm những phim mà con
người muốn xem. Nếu con người không muốn xem cảnh bạo lực thì sẽ có rất ít phim
như vậy, vì sẽ không có ai trả tiền để xem chúng. Nhưng con người muốn xem
chúng. Rõ ràng là có rất rất nhiều người.
Gần như luôn luôn vẫn vậy, mọi
người dừng lại để xem bất cứ khi nào có cơ hội nhìn thấy một người bị thương
hoặc ai đó đang rất đau khổ. Nhiều vụ tắc đường có thể tránh được nếu mọi người
không đi chậm lại để xem một vụ tai nạn. Tương tự, khi có cháy nhà, hàng xóm và
người lạ tụ tập lại để...xem. Sự thu hút của bạo lực không chỉ giới hạn ở thời
hiện đại. Thời Trung cổ, khán giả muốn nhìn thấy một ai đó (bất kỳ ai) bị ăn
bởi những con sư tử. Như vậy, con người thích nhìn thấy ai đó đau khổ và chết.
Nhưng điều này không chứng tỏ rằng mọi người có thể thích gây tai họa, đau khổ
cho người khác. Nhưng cũng khó mà cãi lại thực tế là họ có thể có được niềm vui
khi thấy người khác bị tổn thương.
Con người có thực sự thích gây tổn thương?
Thích những trò tàn ác dường như
giống với nghiện ngập. Rất ít người có nhiều sự vui thú ở ly bia đầu tiên, điếu
thuốc lá đầu tiên, cốc cafe đầu tiên, trải nghiệm hút ma túy đầu tiên của họ.
Hơn nữa, hầu hết những người uống bia không phải là người nghiện, và có bằng
chứng cho thấy nhiều người hút thuốc lá không phải người nghiện thuốc. Do đó sự
nghiện ngập chỉ làm khổ một số người dùng, và chỉ một số thủ phạm là những kẻ
thích thú những trò tàn ác. Và sự nghiện ngập cũng giống như sadism thường là một
quá trình phát triển dần dần và leo thang theo thời gian.
Có một số dấu hiệu cho thấy sự
vui thích những trò tàn ác được trải nghiệm như một sự nghiện ngập, theo ý
nghĩa một người đi đến chỗ khao khát niềm vui đó và muốn nó ngày càng mạnh mẽ
hơn. một nhà nghiên cứu phát hiện thấy một số kẻ hiếp dâm mô tả về nó như sự
hình thành thói quen, nói rằng “Hiếp dâm giống như hút thuốc. Bạn không thể
dừng một khi bạn bắt đầu.”
Những quá trình nghiện ngập
Một trong những lý thuyết quan
trọng nhất về nghiện, được gọi là lý thuyết quá trình đối lập (oponent process
theory) của Richard L.Solomon và John D.Corbit (những năm 1970). Lý thuyết của
họ bắt đầu với khuynh hướng tự nhiên của cơ thể là duy trì một trạng thái cân
bằng ổn định, được gọi là nội cân bằng (homeostasis). Để duy trì trạng thái
này, cơ thể phải có những quá trình để phục hồi nội cân bằng bất cứ khi nào nó
bị làm xáo trộn. Ví dụ, chạy đua sẽ làm cơ thể phấn khích khi kết thúc cuộc
chạy, nhịp tim của người đó sẽ đập nhanh hơn và thở mệt nhọc hơn. Khi kết thúc
cuộc chạy, tim không thể tiếp tục đập nhanh mãi mãi, do đó phải có những quá
trình bên trong để làm nó chậm lại. Do đó, cơ thể vận hành theo những quá trình
đối lập cơ bản một quá trình di chuyển ra khỏi nội cân bằng (tăng tốc) và quá
trình khác có ảnh hưởng ngược lại (làm chậm lại).
Một điểm rất quan trọng của lý
thuyết quá trình đối lập là quá trình phục hồi thứ 2 có xu hướng trở nên mạnh
mẽ hơn theo thời gian. Nó như thể cơ thể học được và trở nên hiệu quả hơn trước
việc chống lại trạng thái khác thường. Chạy mộtkm sau khi không luyện tập một
năm và bạn sẽ thở mệt nhọc lâu hơn, nhưng chạy mộtkm mỗi ngày trong một năm và
sau đó bạn sẽ thở lại bình thường một cách nhanh chóng sau đó. Khi quá trình
phục hồi thứ 2 mạnh mẽ hơn thì quá trình đầu tiên trở nên yếu hơn. Cùng với
nhau, 2 xu hướng đó kéo chúng ta ra khỏi sự cân bằng.
Bây giờ hãy xem xét việc uống
rượu. Rượu tạo ra những cảm xúc và niềm vui khác nhau, như thư giãn và sự khoan
khoái. Nó đưa cơ thể ra khỏi trạng thái bình thường. Sau đó cơ thể có những cơ
chế của nó để làm tỉnh rượu. Khi trạng thái say rượu là rất thoải mái và dễ
chịu thì trạng thái tỉnh rượu là khó chịu và không thoải mái. Khi người đó tiếp
tục uống rượu nhiều lần, người đó phát triển một sự chịu đựng đối với rượu, vì
vậy liều lượng rượu giống nhau tạo ra ít cú hích hơn. Trong lúc ấy, tình trạng
tỉnh rượu trở nên lâu hơn và trầm trọng hơn. Và người nghiện nghĩ rằng dùng
thêm liều là cách duy nhất để cảm thấy tốt trở lại nhanh chóng, thay vì chờ đợi
cho cơ thể trở lại trạng thái ban đầu.
Với rượu và ma túy, khoái cảm nằm
ở giai đoạn đầu (giai đoạn A) và quá trình phục hồi (giai đoạn B) là không
thoải mái. Đang uống rượu cảm thấy tốt; tỉnh rượu cảm thấy tệ. Nhưng không có
lý do gì để giả định rằng giai đoạn đầu luôn luôn là thú vị. một số quá trình
đối lập cho thấy khuôn mẫu ngược lại: Giai đoạn A có thể khó chịu và giai đoạn
B là thoải mái. Ví dụ, những người nhảy dù và leo núi. Nỗi sợ bị ngã vốn là bản
chất của con người, và hầu hết mọi người đều phản ứng lại với nỗi hoảng sợ. Do
đó, giai đoạn A là sự cực kỳ khó chịu: hoảng sợ.
Nhưng tất nhiên cơ thể sẽ không
duy trì một trạng thái hoảng sợ mãi mãi. Để phục hồi nội cân bằng, cơ thể có một
số quá trình để làm bản thân thấy tốt hơn, ví dụ như phóng thích một số hóa
chất sẽ làm dịu nỗi sợ và bù đắp bằng sự vui thích. Chắc chắn là con người sẽ
thấy nỗi sợ bị ngã ngay lập tức bị thay thế bằng sự thư giãn và khoan khoái. Bề
ngoài, nó dường như là ngu ngốc khi tìm kiếm niềm vui bằng cách nhảy dù, vì đó
có vẻ là một cách chắc chắn để tạo ra những cảm xúc tồi tệ; nhưng cảm xúc thoải
mái mãnh liệt theo sau đó có thể là đáng khao khát.
Hơn nữa, khuynh hướng đối với quá
trình B sẽ trở nên mạnh hơn và quá trình A trở nên yếu hơn, có nghĩa là lặp đi
lặp lại theo thời gian, con người sẽ có được sự thỏa mãn nhiều hơn và nhiều
hơn. Lần nhảy dù đầu tiên có thể rất đáng sợ đến nỗi sự thỏa mãn sau đó dường
như không đáng. Tuy nhiên, sau hàng tá trải nghiệm như vậy, nỗi sợ biến mất và
sự thỏa mãn càng mạnh mẽ hơn. Bất kỳ ai khi đạt đến điểm đó có thể thấy trải nghiệm
đó là hấp dẫn và anh ấy có thể bắt đầu khao khát lặp lại nó thường xuyên hơn.
Ví dụ anh ấy có thể muốn nhảy từ độ cao hơn.
Chúng ta hãy áp dụng lý thuyết
quá trình đối lập với sự yêu thích những trò tàn ác. Chúng ta thấy phản ứng ban
đầu khi gây tổn thương cho người khác thường là rất khó chịu. Con người bị sốc,
ghê tởm, tức giận, mất tinh thần, mất can đảm. Nhưng họ không ở trong trạng
thái đó mãi mãi; cơ thể tìm thấy một cách để quay trở lại bình thường. Vì phản
ứng lúc đầu là khó chịu nên phản ứng đối lập phải là thoải mái và tích cực. Do
đó, lần đầu họ gây tổn thương hoặc giết ai đó, họ sẽ cảm thấy tồi tệ nhưng cơ
thể sẽ tạo ra những cảm xúc tốt một cách tinh vi để phục hồi và quay lại trạng
thái bình thường.
Nếu người đó gây tổn thương người
khác những lần tiếp theo thì sự cân bằng giữa tốt và xấu sẽ thay đổi theo lý
thuyết quá trình đối lập. Cú sốc và sự ghê tởm sẽ trở nên yếu hơn và niềm vui
sẽ mạnh hơn và rõ ràng hơn. Theo cách này, sự thích thú với những trò tàn ác có
thể bắt đầu mang lại niềm vui. Niềm vui một người có được từ việc gây tổn
thương người khác hoặc giết họ, tất cả đều ở quá trình B, không phải quá trình
A. Những người thích thú trước những trò tàn ác theo thời gian sẽ trở nên độc
ác hơn, để tìm kiếm nhiều niềm vui hơn.
Tham khảo sách “Evil: Inside
Human Cruelty and Violence.” - Roy F.Baumeister
Nguồn: diendanbaclieu.net