Trong cuộc sống, từ lúc sinh ra,
rồi trưởng thành cho đến ngày nhắm mắt, không ai là chưa từng nếm mùi vị khổ
đau. Khổ đau là một sự thật hiển nhiên trong cuộc sống, không thể nào phủ nhận
được. Sự thật này đã được đức Thế Tôn giảng rõ trong phần Khổ đế của giáo lý Tứ
Thánh Đế, một bài giáo lý nền tảng của đạo Phật. Trong đó, đức Phật đã trình
bày nhiều vấn đề về khổ đau: sanh là khổ, già là khổ, bệnh là khổ, chết là khổ,
mong cầu không được là khổ, thương yêu mà phải xa nhau là khổ, ghét nhau mà gặp
nhau cũng khổ…
Nói chung, đời là bể khổ. Chính
vì vấn đề này mà có một vài người không hiểu Phật giáo vội cho rằng: Đạo Phật
là đạo bi quan và đệ tử của Phật là những người yếm thế. Lời nhận xét này có
đúng không?
Theo nội dung của Khổ đế trong Tứ
Thánh Đế, ngay từ khi còn trong bào thai, thai nhi đã chịu không biết bao nhiêu
sự hãi hùng, khổ sở, lúc thì như ở trong băng tuyết, lúc thì như ở trong nước
sôi lửa bỏng, lúc thì như bị treo ngược. Đến khi sinh ra, do sức ép của cơ thể
người mẹ và do sự thay đổi đột ngột của môi trường sống nên đứa bé đau đớn vô
cùng. Lúc về già, thân hình tiều tụy, mắt mờ, tai điếc, da nhăn, lưng còm, ăn
không ngon, ngủ không yên, khổ sở muôn bề. Khi bị bệnh cũng có lắm điều đau
khổ.
Có một sự thật mà ai cũng sợ,
nhưng không ai tránh được, đó là cái chết. Nỗi ám ảnh về sự đau khổ của cái
chết làm cho con người khủng hoảng trầm trọng. Cái chết nó cướp đi tất cả, phá
vỡ tất cả những gì con người đã lao khổ gầy dựng trong suốt cuộc đời. Rồi mong
cầu mà không đạt được cũng khổ, thương yêu nhau mà phải sống xa nhau cũng làm
cho nhau nhớ thương sầu khổ, ghét nhau mà phải đối mặt nhau cũng khổ. Những nỗi
sầu, bi, ưu não trong cuộc sống là khổ. Đấy là những nổi khổ đau luôn hiện hữu
trong cuộc sống đã được đức Phật dạy rõ trong Khổ đế.
Nếu như đức Phật chỉ trình bày về
khổ đau của cuộc sống không thôi thì đúng là hơi bi quan. Và như thế thì sự
thấy biết của đức Phật cũng không khác gì lắm so với sự thấy biết của người
thường, bỡi hầu như mọi người đều nhận thấy được sự thực đau khổ của kiếp nhân
sinh. Mục kích sự đau khổ ấy, cụ Nguyễn Du đã than:
“Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
Trải qua một cuộc bể dâu
Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Ôn Như Hầu thì ão não hơn:
“Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ, bèo ngoài bến mê”.
Và bi đát, da diết hơn:
“Phong trần đến cả sơn khê
Tang thương đến cả hoa kia cỏ này
Tuồng ảo hoá đã bày ra đấy
Kiếp phù sinh trông thấy mà đau”.
Chao ôi, khổ quá, khổ quá đi
thôi! Trước khổ đau của kiếp người, nhiều người chỉ biết than vãn, chán chường
và thất vọng, không tìm được lối thoát cho mình. Nhưng đức Phật đã không như
thế, Ngài không chỉ nhìn thấy sự thật khổ đau của kiếp người mà còn biết rõ
nguyên nhân dẫn đến khổ đau, và chỉ ra cho mọi người biết phương pháp thoát
khỏi khổ đau. Chính Ngài đã cảm nhận, đã sống với niềm hạnh phúc chơn thường
khi không còn khổ đau vì không còn bị chi phối bởi những nhân tố đem đến khổ
đau.
Đức Phật dạy giáo lý Tứ Thánh Đế
để giúp cho mọi người thấy rõ khổ đau của kiếp sống, đối diện với những nỗi khổ
ấy và tìm cách thoát ra khỏi khổ đau chứ không phải nhìn thấy khổ đau rồi sinh
chán nản, than khóc, nhụt chí. Ngài như là một vị thầy thuốc, trước hết là chẩn
đoán bệnh, thấy được các triệu chứng của bệnh, sau đó tìm hiểu nguyên nhân gây
bệnh và đưa ra phương pháp điều trị để giúp bệnh nhân lành bệnh. Với tinh thần
như thế thì không thể cho là bi quan được.
Hơn nữa, những người học Phật
thấy được sự đau khổ trong cuộc đời tức là đã mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật,
dám đối diện với sự thật, nhìn nhận sự thật khổ đau để chuyển hóa sự thật ấy.
Đấy là việc làm của những con người có dũng khí, có trí tuệ. Một khi đã chuyển
hóa được khổ đau, đã loại bỏ hết những nguyên nhân dẫn đến khổ đau thì sẽ không
còn khổ đau nữa, khổ đau nhường chỗ cho niềm hạnh phúc hiện hữu. Như vậy, hạnh
phúc không phải ở đâu xa, hạnh phúc cũng ở ngay trong cuộc đời này, ngay trong
đời sống của chúng ta. Nếu biết sống thì chúng ta sẽ vui hưởng hạnh phúc, còn
nếu không biết sống thì khổ đau sẽ đến với chúng ta.
Như vậy chúng ta có thể khẳng
định rằng, Phật giáo không bi quan, yếm thế. Phật giáo đã nói lên sự thật, Phật
giáo nhìn sự vật, hiện tượng một cách khách quan. Phật giáo không giả ru con
người vào trong một thiên đường của người ngu, cũng không làm cho mọi người hãi
hùng, thất vía với đủ mọi thứ sợ hãi tưởng tượng và đủ mọi tội lỗi. Phật giáo
chỉ cho mọi người biết một cách chân xác và khách quan về con người và thế giới
mà chúng ta đang sống. Hơn thế nữa, Phật giáo đã chỉ bày cho mọi người thấy
được con đường thoát ra khỏi khổ đau, đến được với sự an lành, hạnh phúc trong
cuộc sống.
Minh Nguyên
Nguồn Tập
San Pháp Luân 25