Trong thời đại ngày nay, hình như
chúng ta có thể thụ hưởng tất cả mọi điều chúng ta muốn nếu chúng ta siêng năng
làm việc và có tiền. Tiền bạc chắc chắn sẽ mang lại cho chúng ta nhiều tiện
nghi văn minh, có thể giúp chúng ta thâu ngắn giờ làm việc và tìm thấy nhiều
thú vui trong cuộc sống hàng ngày.
Tuy nhiên đồng thời, chúng ta
thấy rằng những tiện nghi đó không giải quyết được những vấn đề thiết yếu cho
đời sống chúng ta. Một số đông người đang đau khổ vì những lo nghĩ vật chất
cũng như tinh thần đã làm lay chuyển căn bản cuộc sống của họ. Ðời sống chúng
ta còn luôn bị đe dọa không dứt bởi những làn sóng bất an và sợ hãi. Người hôm
qua chúng ta gặp có thể bị tai nạn và chết hôm nay. Và ngày mai, một trận thế
chiến khác biết đâu lại chẳng xảy ra để tận diệt toàn thể chúng ta.
Sự có một chiếc xe hơi hay một
gian nhà không bù đắp được niềm lo âu và sợ hãi ở nội tâm chúng ta. Khi chúng
ta nhận thức được rằng nhu cầu vật chất là thiết yếu, nhưng không phải là
phương tiện tuyệt hảo có thể làm cho cuộc sống chúng ta phong phú, dĩ nhiên lúc
ấy chúng ta sẽ phải tìm đến tôn giáo là nơi hy vọng có thể đem lại cho chúng ta
sự an bình trong tâm và ý nghĩa của cuộc sống. Xung quanh chúng ta có nhiều màu
sắc tôn giáo đang mời gọi tâm hồn chúng ta. Tuy nhiên chúng chỉ ảnh hưởng đến
chúng ta một cách gián tiếp. Nhiều người quá chú trọng đến công tác xã hội gần
như quên hẳn những vấn đề khác của đời sống tôn giáo. Có những kẻ lại chỉ lo
nghĩ đến việc cầu xin mê tín dị đoan và chấp nhận mù quáng mọi giáo điều của
giới lãnh đạo tinh thần trong tôn giáo.
Mọi lý thuyết Thần Học về những
quyền lực siêu nhân của họ tìm thấy qua sự chữa lành bệnh nhân và các phép lạ
không dể dàng chứng thực trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Do đó, chúng
trở nên càng khó hiểu và thực hành. Nhiều người đã không thỏa mãn nên khao khát
đi tìm một vài giải đáp chân chính cho những vấn đề thắc mắc trong cuộc, có thể
thỏa mãn cả hai mặt tinh thần và tình cảm của họ; nhưng họ đã không tìm thấy
điều đó trong các tôn giáo cổ truyền và đành bỏ chúng để hy vọng tìm câu giải
đáp trong những thế giới ăn chơi dục vọng. Tuy nhiên, họ đã thất bại không tìm
ra ý nghĩa cuộc sống qua những cảnh giới hoan lạc nói trên và tinh thần họ trở
nên những kẻ cuồng loạn không còn có thể đương đầu với mọi vấn đề sự sống khách
quan của họ nữa.
Chúng ta nên nhận thức rằng chúng
ta phải làm chủ nhân ông, chứ không là những kẻ nô lệ cho mọi nếp sống dục vọng
thường tình mà chúng vốn lâu đời ngự trị ở chúng ta. Trong vấn đề này, Phật
Giáo đã nổi bật hơn các tôn giáo khác. Phật Giáo là một tôn giáo- thế giới và
là một phương pháp sống do Ðức Phật Thích Ca chỉ bày khoảng 2500 năm về trước.
Ðiều mà Ngài đã chứng ngộ là một giáo lý độc nhất chưa có vị Hiền Thánh nào
trên thế giới này tìm ra. Chính Ngài đã có một kinh nghiệm khổ đau về mọi vấn
đề cuộc sống và nhờ ở sự tu tập tranh đấu bản thân, Ngài đã giác ngộ được con
đường tận diệt chúng. Con đường đó là sự nhận thức về “Bản Thể Ðồng Nhất Của Sự
Sống” mà không một tôn giáo Tây Phương nào có thể tìm ra.
Ðức Phật đã giác ngộ sâu xa rằng
tất cả chúng sinh hữu tình đều có chung ý muốn ham sống và sự thể hiện nó trong
những hoàn cảnh riêng của mỗi người. Mọi người đều gắn liền với thực tại và họ
chỉ có thể sống còn nhờ nương vào sự sống của những kẻ khác. Cho nên cuối cùng,
đức Phật tin tưởng rằng con đường duy nhất chúng ta có thể áp dụng mà không làm
hại lẫn nhau là thực hiện sự đồng nhất căn bản của mọi cuộc sống. Thế giới
chúng ta không gì khác hơn ngoài sự thể hiện tánh đồng nhất của cuộc sống trong
đó mọi chúng sinh, hữu tình cũng như vô tình đều mật thiết tương quan sinh tồn.
Trên căn bản này sự cuộc sống,
con người phải xóa bỏ mọi sự phân biệt và chấm dứt cái ý tưởng gọi là “Của Ta”
hoặc “Không Phải Của Ta”. Sự phân biệt này phát sinh bởi lòng dục vọng vô minh,
nguồn gốc sâu xa từ vô thỉ đã buộc ràng con người. Theo Phật Giáo, lòng tham mù
quáng đã khiến chúng sinh phân biệt cuộc sống cá nhân với vô lượng thế giới sự
sống của những kẻ khác, và từ đó phát sinh ở tâm niệm con người mọi ý tưởng
tranh chấp, ngộ nhận và xung đột. Cũng bởi lòng tham mù quáng này đã dẫn đến sự
chấp ngã “cái Ta” của con người và do đó sinh ra tính xấu vị kỷ. Vì dục vọng vô
minh con người đã chống lại bản thể đồng nhất của sự sống để tạo nên một thế
giới giả dối với muôn ngàn cuộc sống sai biệt, một thế giới không thật có, mà
chỉ do những vọng tưởng điên đảo của con người tạo ra.
Nếu chúng ta nhận thức được tầm
quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ
khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ, và bởi tất cả chúng ta là Một nên
khi chúng ta làm hại kẻ khác tức có nghĩa là chúng ta đã làm hại chính mình.
Cho nên, bản ngã đồng nhất này là một chân lý cao siêu nhất và đức Phật được tôn
xưng là bậc Toàn Giác, đấng đã giác ngộ thấu suốt tận cùng bản thể của sự sống
muôn loài.
Khi một vị đệ tử của đức Phật
hỏi: “Ngài có phải là Thượng Ðế không?”. Ðức Phật trả lời: “Không”. “Là một bậc
Thánh?”. “Không”. “Vậy Như Lai là người thế nào?”. Ðức Phật đáp: “Ta là người
đã giác ngộ”. Câu trả lời của đức Phật đã trở thành danh hiệu của Ngài, bởi đây
là điều đức Phật đã thuyết bày.
Ðức Phật không phải là đấng Tạo
Hóa dựng nên vũ trụ như một số người lầm tưởng hay một vị Thần cao cả có nhiều
quyền phép thiêng liêng. Ngài không là một quan tòa có quyền thưởng phạt chúng
ta, cũng không phải đấng Thượng đế phân biệt được hành động Thiện, Ác của con
người. Ngài chỉ là một ánh sáng chỉ đường tuyệt vời trong vũ trụ. Trí tuệ vô
biên và lòng từ bi bao la của Ngài đã khai ngộ cho chúng ta nhận thức được sự
vô thường mong manh của kiếp sống con người và khích lệ chúng ta có được lòng
thương tất cả mọi chúng sinh vốn chung cùng với chúng ta một bản thể đồng nhất.
Cho nên chúng ta là những vị Phật
sẽ thành, và đức Phật với chúng sinh đều có tương quan liên hệ, nghĩa là trong
Phật có chúng sinh và trong chúng sinh có Phật. Ðây không phải là một cảnh giới
huyền bí hay ảo tưởng riêng dành cho những kẻ siêu phàm mới có thể đạt được, mà
là một cuộc sống thông thường chúng ta có thể thực hiện trong đời sống hằng
ngày. Giáo lý đức Phật không phải tìm thấy bởi sự suy luận hay tranh biện mà do
ở kinh nghiệm trực tiếp được xây dựng trên chân lý của những luật nhân qủa. Ðức
Phật dạy: “Giáo lý của Như Lai không gì khác ngoài lời dạy cuộc sống là khổ đau
và phương pháp diệt trừ đau khổ”. Lời dạy của Ðức Phật do đó rất thực dụng và
khoa học cùng luôn luôn liên hệ đến những vấn đề sự sống và năng lực phát triển
tinh thần của chúng ta.
Khi đức Phật sắp nhập diệt, Ngài
đã truyền dạy cho đức A Nan một trong những đại đệ tử của Ngài như sau: “Này A
Nan! Ngươi hãy tự làm ngọn đuốc cho chính ngươi. Ngươi hãy quay về nương tựa
nơi chính ngươi. Ðừng tìm nơi nương tượng nào khác ở ngoài. Hãy nắm vững chân
lý làm ngọn đèn soi sáng cho ngươi. Hãy nắm vững chân lý làm nơi nương tựa cho
ngươi. Hãy tinh tấn để tự giải thoát” (O Ananda, be ye lamps unto yourself. Be
ye a refuge to yourself. Betake yourself to not external refuge. Hold fast to
the Truth as a lamp. Hold fast as a refuge to the Truth ……Work out your own
salvation with diligence…….). Trải qua hơn 2500 năm. Phật giáo dù đã được phát
triển thành nhiều hệ thống tư tưởng và học thuyết nhưng không ngoài cứu cánh là
khai thị cho chúng sinh nhận thức được “Bản Thể Ðồng Nhất Của Sự Sống” qua đức
tính bình đẳng Từ Bi và Trí Tuệ của đức Phật.
Chuyển ngữ: Hoà Thượng Thích Trí
Chơn
Trích tạp chí “Tiếng Nói Phật
Giáo” (Voice of Buddhism) phát hành tại Kuala
Lumpur (Mã Lai Á).