Phần tinh-ba nhất của con người
là tư-tưởng. Con người có thể tự-hào rằng mình hơn vạn-vật ở chỗ biết
suy-tưởng. "Người là một cây sậy biết suy tưởng", câu nói ấy vừa thú
nhận sự yếu đuối của con người trước vũ-trụ mà cũng lại vừa đề cao khả năng
bất-diệt của con người trước vũ-trụ.
Đứng trước vạn tượng bao la, và
nhìn lại bản-thân mình, con người khát-khao được hiểu biết. Hiểu biết để được
thỏa mãn, và hiểu biết để sống cho đáng sống. Chính khuynh-hướng muốn tìm hiểu
ấy đã làm nẩy sinh ra triết học.
Nhân loại ngày nay đã hiểu biết
tới đâu? Triết học đã vạch ra được con đường tiến của con người chưa? Đã giải
quyết được những nỗi thắc mắc lớn lao của con người về cuộc sống, về vũ-trụ và
về bản thân của con người chưa?
Đó là những câu hỏi mà chính
những con người có khả năng suy-tưởng nhất cũng phải ngậm-ngùi mỗi khi nghĩ
đến.
Người ta băn-khoăn tự hỏi
tri-thức con người có đủ khả-năng để đạt đến sự thực hay không. Nếu không thì
con người còn suy-tưởng làm chi. Thà rằng cứ ù-ù cạc-cạc mà sống trong cuộc
đời, bởi vì sự suy-tưởng vô vọng ở đây chỉ làm cho con người thêm đau khổ.
Nhưng con người không thể không
suy-tưởng. Sống là suy-tưởng, và vì thế, dù triết học là một môn học không-hư,
viển-vông, vô-ích thì triết-học cũng còn phải tồn-tại mãi mãi; bởi vì khi con
người còn suy-tưởng đến những vấn-đề căn-bản của kiếp người thì triết-học vẫn
còn. Ba nghìn năm lịch-sử của triết-học hình như đã nói với ta như thế.
Vào buổi rạng đông của triết-học,
con người rất tin tưởng ở khả-năng tri-thức của mình. Nhưng cùng với những
triết-gia hoài-nghi, lòng tin ấy mất dần, mất dần… Càng đi sâu vào sự
suy-tưởng, con người càng cảm thấy rõ ràng cái bất-lực của tri-thức nhân loại!
Con người lại càng bi-quan hơn nữa khi thấy bên cạnh cái tri-thức yếu đuối và
hèn kém ấy, còn có một tâm-hồn nặng-trĩu những ước-vọng đen tối, xấu- xa. Chính
những mờ tối, cố-chấp và chủ-quan nầy đã dự phần vào việc che lấp phần
khách-quan đáng quý mà tri-thức cần phải đầy đủ.
Với những vốn liếng nghèo-nàn như
vậy mà con người đã dám hy-vọng có thể tìm ra chân-lý. Đã thế lại còn muốn bay
xa, rất xa trong cõi siêu hình. Càng xa càng hay. Cần gì đến thực nghiệm! Thái
độ "duy lý" cũng đã đủ để đảm bảo rồi! Vướng vào thực-nghiệm làm sao
mà bay xa đuợc! Và như thế, con người tha hồ tự do kiến tạo những giấc mộng
siêu hình.
Nói "những giấc mộng siêu
hình" rất đúng, vì chính những kiến tạo duy-lý của con người về siêu-hình
đều do những động lực rất chủ quan của con người sắp đặt: phần lý-trí nhiều lầm
lạc và thành-kiến, phần tình cảm nhiều mờ-ám, thiên lệch, cho nên giấc mộng của
tôi không phải là giấc mộng của ngài, và loài người có đến muôn ngàn giấc mộng…
Đã có ai công nhận của ai là đúng đâu.
Đức Phật lúc đương thời đã nhận
thấy cái vô ích của những giấc mộng siêu hình. Ngài không muốn cho các đệ-tử
Ngài đắm chìm trong những suy tưởng siêu-hình, những vọng-tưởng sai lầm của
tri-thức và tình cảm chủ quan. Vấn đề trọng đại mà Ngài đặt ra cho đệ-tử là
phải tiêu-diệt ngay phần mê-mờ thiên lệch nằm trong tri-thức và tình cảm của
mỗi người – nghĩa là phải tu-hành để tự giải thoát khỏi vô minh triền- phược.
Diệt trừ được phần mê-vọng là đạt đến tất cả. Chưa diệt trừ được phần mê vọng
thì dù có suy-tưởng ngàn kiếp đến các vấn-đề siêu-hình cũng vẫn không đi đến
một kết quả tốt đẹp nào. Phương-pháp của đức Phật là phương-pháp thực hiện,
không phải là phương-pháp suy-tưởng. Đạo Phật là một đạo sống chứ không phải là
môn học siêu hình.
Một hôm đức Phật cầm trong tay
một nắm lá "sinsapa" và nói với các vị đệ tử xuất gia: "Các ngươi
nghĩ sao? Lá trong tay ta nhiều hơn hay là lá trong rừng này nhiều hơn?" –
"Bạch đức Thế Tôn, những ngọn lá Ngài cầm trong tay thì ít mà lá trong
rừng thì quá nhiều" – "Cũng như thế đó, các thầy tỳ-khưu, những cái
ta biết thì rất nhiều, nhưng những cái ta đem ra dạy các thầy thì rất ít. Tại
sao ta không đem tất cả ra để dạy các thầy? Bởi vì những cái ấy không có lợi gì
cho các thầy cả. Chúng không giúp gì cho sự giải-thoát cho nên ta không đem dạy
các thầy. Ta dạy các thầy những gì? Ta dạy về sự khổ, nguyên-nhân cái khổ, sự
diệt khổ và con đường đi đến diệt khổ. Những thứ ấy có ích lợi, vì chúng có thể
đưa các thầy đến chỗ giải-thoát" (Samyutta).
Ta thấy rõ ràng đạo Phật là một
con đường và là một con đường duy nhất đưa đến chỗ diệt khổ. Đạo Phật chỉ là
một lối sống, một lối thực-hành, không phải là một thuyết-lý vô ích, một
"hý-luận". Bởi vì đạo Phật nhận thấy cái cần thiết của sự diệt-trừ
mê-vọng. Đức Phật nói: " Này các thầy tỳ kheo, đừng nghĩ vớ vẩn rằng thế
giới này là hữu hạn hay vô hạn, hữu cùng hay vô cùng. Dù cho thế giới này là
hữu hạn hay vô hạn, dù cho nó hữu cùng hay vô cùng thì điều mà chúng ta phải
nhận là hiện-hữu ở đời này, là những khổ đau: sinh, lão, bệnh, tử"
(Anguttara).
Vậy đạo Phật chủ trương dẹp bỏ
tất cả các lý luận vọng tưởng, cấm trí-óc phiêu-lưu vào trong những thế giới
suy-tưởng siêu-hình mà đạo Phật quyết chắc rằng chỉ là những vọng tưởng hư-ngụy
và vô ích. Đạo Phật kéo con người trở về với thực- nghiệm. Thực-nghiệm này là
một thực nghiệm bao-la rộng rãi. Đó là sự nhận thức cái "khổ" ở đời.
"Khổ" là một chân lý
thực-nghiệm. Không những chỉ sinh lão bệnh tử mới là khổ. Còn bao nhiêu cái khổ
khác, lặt vặt hơn, nhưng phiền toái hơn, và dày vò con người thường xuyên hơn.
"Nhận thức cái khổ" không phải chỉ là xác-nhận cảm giác khổ-thọ là
thực hữu. Nhận thức cái khổ – dukkha – nghĩa là phải nhận chân một cách rõ rệt
và sâu xa tính cách vô thường vô ngã chống đối nhau của vạn-sự, vạn-vật. Rộng
rãi hơn, nhận thức cái khổ tức là biết mình sống đau khổ trong một thế-giới khổ
đau với một nghiệp báo không tốt đẹp. Tất cả những giáo-lý Phật dạy đều hướng
về chủ đích làm cho con người có ý-thức về cái khổ, và nhận chân được cái khổ
theo định nghĩa rộng rãi như trên. Con người trước tiên phải thực-nghiệm một
cách sâu xa và rộng rãi cái "khổ" ấy, cái sự thực Vô-Thường, Vô-Ngã,
Bất-Tịnh và Mâu-Thuẫn ấy. Có thực nghiệm như thế rồi, con người mới đặt vấn đề
cần thiết: tìm nguyên do của sự khổ và phương-pháp diệt khổ.
Kẻ nào chỉ có ý thức nông cạn về
cái khổ thì không thể tìm đến nguyên nhân của cái khổ được. Khi con người đã
chứng nghiệm một cách đầy đủ và sâu xa cái khổ Vô Thường, Vô Ngã, Bất Tịnh và
Mâu Thuẫn, con người sẽ tìm đến nguyên nhân của cái khổ một cách dễ dàng. Đã có
chân lý thứ nhất là Khổ-đế, thì có chân lý thứ hai là Tập- đế, nguyên nhân sự
khổ. Đức Phật bảo rằng nguyên nhân sự khổ là mê-vọng, ác nghiệp, là ái-nhiễm,
và con người cũng nhận thấy như thế. Nguyên nhân của sự khổ cũng như sự khổ,
không phải là một kết quả do những suy tưởng siêu hình đem lại mà là một chân
lý có thể thực-nghiệm. Ai cũng có thể thực nghiệm chân lý ấy cả. Kinh nghiệm
sống dạy cho con người chân lý ấy. Đức Phật muốn cho con người có ý thức rõ rệt
về chân lý ấy. Giáo điển đạo Phật đã thuyết minh rõ ràng về chân lý ấy.
Vậy Khổ-đế và Tập-đế là những
điều thực-nghiệm rộng rãi và đầy đủ dùng làm nền tảng cho phương pháp đạo Phật.
Đứng trước những chân-lý thực nghiệm ấy, con người cố nhiên phải nhận thấy con
đường của mình: giải thoát diệt khổ.
Nếu nguyên-nhân của đau khổ là
dục vọng thì diệt-trừ dục-vọng tức là diệt-trừ đau khổ. Đó là một điều quá
giản-lược mà không ai không thấy. Cuộc đời là khổ. Và nguyên-nhân của cái khổ
ấy là dục vọng. Tiêu diệt được dục-vọng tức là tiêu diệt được cuộc đời đau khổ.
Vậy, theo đạo Phật, cuộc đời khổ đau, con người phải tiêu diệt cuộc đời khổ đau
ấy để tiến đến Niết-bàn.
Đừng vội la lên rằng: như thế thì
đạo Phật là quá ư tiêu cực, là chủ trương đừng sống, là chủ trương xa lánh cuộc
đời, là chủ trương biến tất cả thành hư-vô. Dục vọng là nguyên nhân của sự khổ
đau, là gốc của sinh, lão, bệnh, tử và ngàn muôn khổ-thọ khác. Nhưng con người
không phải chỉ có dục-vọng mà thôi. Con người còn có những gì thanh thoát cao
siêu hơn dục-vọng, như lòng từ bi, như trí tuệ… Vậy tiêu diệt dục-vọng chỉ là
tiêu diệt cuộc đời khổ đau; nói một cách khác hơn, là tiêu diệt phần khổ đau
của cuộc đời. Phần dục vọng bị tiêu-diệt, nhưng còn phần tinh-ba cao khiết sẽ
ra sao? Phần tinh-ba cao khiết này, khi dục vọng tiêu diệt, cố nhiên sẽ được
thực hiện toàn vẹn. Không lẽ sự thực hiện toàn vẹn của phần này lại đưa đến một
kết quả hư vô?
Vậy khi dục-vọng tiêu-diệt, phần
xấu xa của cuộc đời (vô thường – khổ đau – vô ngã – bất tịnh) bị tiêu diệt,
nhưng phần tốt đẹp của cuộc đời (thường – lạc – ngã – tịnh) phải được thực hiện
toàn vẹn, vì ở con người, phần tinh ba cao khiết đã được thực hiện toàn vẹn.
Vậy Niết-bàn không phải là hư-vô, mà là sự thực-hiện toàn vẹn của những gì cao
khiết nhất, thanh tịnh và nhiệm-mầu nhất.
Sống trong cuộc đời vô thường, vô
ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu thăng trầm sinh tử, mà không thấy có vô
thường, vô ngã, bất tịnh, khổ đau với bao nhiêu thăng trầm sinh tử ấy: đó là
Niết-bàn.
Đạt đến chỗ diệt trừ dục vọng,
con người được giải-thoát, hoàn-toàn tự-do, không còn bị nô-lệ cho một thứ gì
nữa. Vấn đề Giải-Thoát chỉ là vấn đề thay đổi nhận thức. Dục-vọng tiêu-diệt, bi
trí thực-hiện, tức thì nhận thức biến-đổi. Vô thường, khổ đau, vô ngã, bất
tịnh, trước nhận thức giải-thoát, biến thành Thường, Lạc, Ngã, Tịnh. Sinh tử
triền phược là ở đấy. Niết-bàn giải-thoát cũng ở đấy. Và Niết-bàn không rời
sinh tử, "Niết-bàn, sinh tử thị không hoa".
Có mặt xấu của cuộc đời là sinh
tử, thì cũng có mặt đẹp của cuộc đời là Niết-bàn. Đó là chân lý thứ ba.
Nhưng để diệt trừ dục vọng, đạt
tới Niết-bàn, con người cần phải có một đường lối, một phương pháp. Đạo Phật là
đường lối ấy, là phương pháp ấy.
Đường lối diệt-dục cần phải rất
rõ ràng, và phải khởi đầu từ bờ Mê, nghĩa là phải để cho con người khổ đau có
thể đặt được những bước đầu tiên, khó khăn và ngượng ngập. Pháp môn tuy nhiều
vô lượng, song được bao hàm trong mấy điều giản-lược thiết yếu: Tam học và Bát
chính đạo.
Tam-học: giới, định, tuệ. Chủ
động của những nghiệp quả xấu xa, là các hành vi, ngôn ngữ và ý-nghĩ mê-vọng.
Các "vọng nghiệp" này lại còn giúp sức cho dục-vọng phát triển. Vậy
công việc trước tiên là phải đình chỉ chúng lại. "Giới" chính là sự
đình chỉ ấy. Không làm, không nói và không nghĩ những nghiệp nhân mê vọng tức
là không chịu tuân theo sự sai sử của dục-vọng. Đó là công tác cách mạng đầu
tiên. Có thành công trong bước đầu kháng cự và bất phục tùng này, con người mới
hy vọng tiến đến giai-đoạn tiêu diệt dục vọng.
Trì-giới tức là không chịu rót
thêm dầu trong ngọn đèn dục-vọng. Tuy thế, ngọn đèn vẫn cháy mạnh. Cho nên, con
người phải dùng thêm những biện pháp tích cực để làm yếu dần sức cháy kia và
cuối cùng, tiêu diệt được ngọn lửa đèn.
Do công năng trì-giới, ý chí càng
lúc càng mạnh. Hành-giả sẽ thực-hành phép tập-trung tư-tưởng, dùng lực lượng
thiền-định để cắt xén dần những rễ dây chằng-chịt của dục vọng và trải qua
nhiều công phu, có thể lay chuyển và xô ngã được cội rễ của nó.
Dục vọng càng bị tiêu diệt, trí
tuệ càng thêm tăng trưởng. Trí-tuệ càng tăng-trưởng thì sức phá trừ dục vọng
càng thêm mãnh liệt. Cứ thế hành-giả tiến dần đến chỗ tiêu-diệt hoàn toàn những
mầm mống vi-tế nhất của cội nguồn đau khổ. "Nhân Giới sinh Định, nhân Định
phát Tuệ" là câu nói tóm tắt của tam-học vậy.
Nhưng công phu tam-học cần được
thành lập trên những kiến thức chân chính – chính kiến (vue juste). Nghĩa là
cần thấu hiểu và chứng-nghiệm triệt-để bốn sự thực căn bản (gọi là Tứ Đế) để có
thể tránh khỏi những nhận thức sai lầm, những tà kiến trái chân lý. Phải theo
lời Phật dạy để biết xử dụng pháp tập trung tư tưởng và pháp thiền-quán đúng
theo chính-pháp – chính định và chính tư duy (concentration juste et meditation
juste). Chỉ tưởng niệm những điều đúng chính pháp – chính niệm (pensée juste).
Phải siêng năng theo con đường chính – chính tinh tiến (effort juste). Phải có
một phương-tiện sinh tồn chân-chính – chính mạng (moyen d’existence juste).
Phải hành động và nói năng đúng theo chánh pháp – chính nghiệp và chính ngữ
(action juste et parole juste). Đó là bát chính đạo.
Con đường tuy gay go nhưng là con
đường duy nhất. Tất cả các hệ thống giáo lý phong phú của đạo Phật chỉ có một
mục-đích duy nhất là trình bày phương-pháp và đường lối giải thoát, ngoài ra
không hề có nhằm mục đích giải quyết những thắc-mắc siêu-hình. Người nào nhìn
đạo Phật như một khoa học siêu-hình chính người đó đã không hiểu đạo Phật.