Vấn đề giải thoát

"Nước trong bốn biển chỉ có một vị là vị mặn, cũng như thế giáo lý của ta chỉ có một vị là vị giải thoát".

Câu nói ấy của đức Bổn sư đã xác nhận rằng mục đích duy nhất của đạo Phật là đưa chúng sanh đến chỗ giải thoát giác ngộ. Như vậy thì tất cả các Phật tử, dù xuất gia hay tại gia, cũng đều phải hướng về mục đích giải thoát ấy cả.

Nhưng nói đến giải thoát tức là nói đến một sự cởi mở, thoát ly. Mà chỉ khi nào người ta cảm thấy bị ràng buộc, tù túng người ta mới nghĩ đến sự cởi mở, thoát ly, nói tóm lại, mới nghĩ đến việc giải thoát.

Vậy thì ở đây, con người bị cái gì ràng buộc, câu thúc?

"Tất cả các chúng sinh vì vô minh che lấp mất chân tánh, bị dục vọng phiền não sai khiến, tạo ra muôn ngàn nghiệp ác vì đó mà phải trôi nổi trong biển khổ luân hồi" ( Kinh Lăng Nghiêm ).

Đi từ quả đến nhân, ta thấy: Biển khổ sanh tử luân hồi – nghiệp ác – dục vọng phiền não – lấp mất chân tánh – vô minh. Do vô minh mà chân tánh bị mờ ám, chân tánh mờ ám cho nên sinh ra dục vọng phiền não1, dục vọng tạo ra nghiệp ác, và nghiệp ác đưa đến kết quả khổ đau luân hồi. Giải thoát nghĩa là phá tan được dòng nhân quả liên tục ấy.

Nhưng muốn được giải thoát, trước hết, người ta phải nhận thấy rằng mình đang bị ràng buộc. Biết bao nhiêu kẻ đang sống trong sự ràng buộc mà không hề biết rằng mình bị buộc ràng, cho nên không hề nghĩ đến sự giải thoát. Vì thế, muốn cho họ có ý tưởng giải thoát, phải tìm cách làm cho họ nhận thấy rằng họ đang bị ràng buộc đã.

Phương pháp của đạo Phật là làm cho con người có ý thức rõ ràng về cuộc đời mà mình đang sống: một cuộc đời khổ đau. Con người không thể an vui được trong cuộc đời khổ đau: phải tìm cách thoát ly cuộc đời ấy. Những dây xích nào đã ràng buôïc con người vào cuộc đời khổ đau? Đấy chính là dục vọng, là phiền não, là ác nghiệp, là vô minh. Phá tan những xiềng xích này thì có thể tìm đến một chân trời tự do, không còn bị khổ đau bức bách.

Vậy con đường Giải Thoát bắt đầu bằng một nhận thức: nhận thức cuộc đời là khổ. Đó là chân lý thứ nhất trong Tứ diệu đế. Biết bao nhiêu người đã nhờ ý thức sâu xa chân lý ấy mà được giải thoát. Càng cảm thấy đời là khổ đau bao nhiêu, người ta càng mạnh mẽ bước lên đường giải thoát bấy nhiêu. Khổ đau ở đây là một thứ thuốc đắng, thật đắng, nhưng đã là một thứ thần dược giúp người mau thoát được bệnh não phiền.

Nhưng "khổ đau" ở đây không những chỉ có nghĩa là những cảm giác đớn đau mà thôi. Tiếng khổ (dukkha) của đạo Phật còn có nghĩa là vô ngã, bất tịnh, vô thường và u tối nữa.

Sống, nhưng ta có thể thắc mắc rất nhiều về tự thân chúng ta. Bản ngã chúng ta là một cái gì mà chính ta cũng không thể nhận biết được. Đó là một cái thể sinh lý (sắc) hay đó là những hiện tượng tâm lý (thọ, tưởng, hành, thức) kết hợp? Tại sao qua những hiện tượng biến đổi vô thường lại có thể có một cái Ta đồng nhất bất biến? Phải chăng cái Ta ấy chỉ là một giả danh, một đối tượng của óc vọng tưởng?

Sống, nhưng ta luôn luôn nhận thấy rằng tâm ta là nguồn gốc phát sinh bao nhiêu tư tưởng bất thiện tội lỗi: tham lam, giận dữ, si mê, thân ta là một khí cụ để tạo bao nhiêu nghiẹâp ác: sát hại, trộm cắp, tà hạnh… Tâm cũng như thân, đều là những rừng tội (tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu: Kinh Bát đại nhân giác). Lắm lúc chúng ta lại tự chán ghét chính cả cái bản thân của chúng ta.

Sống, nhưng ta luôn luôn cảm thấy ta là nô lệ. Nô lệ cho dục vọng. Nô lệ cho cả cuộc đời do ác nghiệp của chúng ta dựng nên. Chúng ta bị vây trong vòng nghiệp báo, bị đắm trong đêm tối của vô minh.

Chúng ta có được sống trong hiện tại đâu, có thấy được hiện tại đâu, có vươn được tới hiện tại đâu? Hình thể của cuộc đời mà ta nhận thấy bằng giác quan, đã là hình thể của một cuộc đời quá khứ mất rồi! Vạn vật luôn luôn chuyển biến vô thường. Ta chỉ sống được trong cái quá khứ của cuộc sống chứ chưa bao giờ được sống trong cuộc sống cả. Chúng ta cũng giống hệt, như những người ngồi trên xe hơi, lưng quay về phía trước, và chỉ thấy được cảnh vật đã qua. Ban đêm, vũ trụ đầy tinh tú mà ta trông thấy đây chắc chắn không phải là vũ trụ của hiện tại. Bởi vì có hàng triệu ngôi sao đã tan vỡ từ bao nhiêu thế kỷ, mà hình dáng vẫn còn để cho ta trông thấy hôm nay. Và vũ trụ tinh tú của hôm nay, có lẽ đến bao nhiêu đời sau, cháu chắt ta mới trông thấy được!

Chưa bao giờ được sống trong cuộc sống, chưa bao giờ được sống với hiện tại! Khổ đau cho chúng ta đến chừng nào! Ta tưởng như bao nhiêu uất ức dồn lên, ta muốn phá tan bao nhiêu xiềng xích vô minh, buộc ràng, để vươn đến chân trời thực tại, sống tự do trong bản thân cuộc sống, thể nhập vào cuộc sống muôn đời.

Những khổ đau, những cảm tưởng tù đày của cuộc sống ấy, làm tiêu tán nơi ta những ước muốn thỏa mãn dục lạc phờ phỉnh của cuộc đời và làm cho ta cương quyết tiến bước mạnh dạn trên đường tự giải phóng.

Chân lý "đời là khổ" phải gây nơi ta một bất mãn. Sự bất mãn ấy phải lên tới cực độ để có thể thực hiện trong tâm hồn ta một cuộc khủng hoảng mầu nhiệm khiến ta chuyển hướng cuộc đời. Ta gạt bỏ tất cả những ước ao của cuộc đời tầm thường khổ não, ta lên đường đi tìm chân lý và giải thoát. Trong thế giới chân lý và tự do, ta sẽ được tự tại và an nhiên, thoát ly bao nhiêu khổ đau thắc mắc.

"Đời là khổ" vì thế đối với chúng ta là một vấn đề then chốt. Chân lý nầy không được quan niệm một cách quá thô sơ! Không nên hiểu chữ "khổ" nầy như là những "cảm giác khổ thọ", mà phải hiểu với tất cả những nghĩa vô thường, vô ngã, bất tịnh, vô minh của nó.

Tuy nhiên, một đặc điểm của đạo Phật là giáo lý cần khế hợp với thời cơ. Chân lý "đời là khổ" kia đối với hạng đại căn nếu là một thứ thuốc hay, thì đối với hạng yếu đuối lại là một thứ thuốc nguy hiểm. Một bên nhờ nhận thấy cuộc đời là khổ mà có thể ra công diệt khổ để giải thoát. Một bên vì nhận thấy cuộc đời là khổ mà càng thêm khổ đau, tay chân bủn rủn và rốt cuộc bị đắm chìm sâu thêm trong biển khổ. Cho nên với những người đại căn có năng lực giải thoát, đạo Phật mới khai thị cho họ chân lý "đời là khổ" ấy. Một khi họ ý thức được rằng họ đang sống trong "đau khổ" họ sẽ cương quyết diệt khổ. Đạo lý dành cho hạng người nầy là đạo lý xuất thế (xuất thế pháp).

Còn đối với những kẻ mà căn cơ yếu hèn, đạo Phật chủ trương xây dựng cho họ một bản lĩnh trước đã. Giáo lý của họ là giáo lý nhập thế (nhập thế pháp) của nhân thừa và thiên thừa. Không cần đặt mục đích giải thoát cho họ giải thoát ngay trong hiện tại. Bởi vì nếu đặt vấn đề ấy ngay bây giờ, họ sẽ chán nản, khiếp sợ, vì càng ý thức về cái khổ bao nhiêu, họ càng cảm thấy đau khổ bấy nhiêu. Mục đích mà họ nhắm đến thì gần với họ hơn mục đích giải thoát nhiều. Họ sẽ đi từng chặng đường, và chỉ khi nào đủ sức, họ mới được nhắm vào mục đích tối hậu là mục đích giải thoát. Những mục đích gần kia, tuy không hẳn đã là mục đích cuối cùng, nhưng là những phương tiện để đưa dần đến mục đích cuối cùng. Qua giáo lý phương tiện, ta có thể nhìn thấy giáo lý cứu cánh, và qua năm thừa của đạo Phật, ta có thể thấy được một Phật thừa duy nhất (Kinh Pháp Hoa). Vì lẽ ấy cho nên đức Phật dạy rằng giáo lý của ngài chỉ có một vị là vị giải thoát.

Chân lý "đời là khổ" chính là giáo lý xuất thế, dành cho các bậc xuất trần thượng sĩ; đại đa số quần chúng vì căn cơ yếu đuối, không thể đủ sức thi hành. Họ phải nương theo giáo lý nhân thiên thừa, đặt những mục đích gần hơn để cho khỏi chói, khỏi ngợp và ít nản lòng. Giáo lý nhập thế không bắt buộc con người phải nhìn đời với tất cả những sự thật khổ đau của nó, để rồi chán nản với khổ đau thêm. Nhà văn Lê văn Siêu đã không nhận được tinh thần thiệp thế phương tiện ấy của đạo Phật khi ông nói: "Đối với quảng đại quần chúng, công dụng của tư tưởng và giáo lý ấy (đời là khổ) lại là thúc đẩy thêm ý thức về những đau khổ của cuộc sống mà mình đương quằn quại chịu đựng".

Người ta thường bảo đạo Phật chủ trương chán đời. Đúng! Bởi vì còn ham mê cuộc đời và lặn lội theo bao nhiêu dục vọng của nó thì làm sao mà giải thoát khổû đau cho được. Có chán đời đến triệt để thì mới nghĩ đến sự giải thoát. Chán, ở đây là chán một lối sống (sống theo dục vọng vô minh) và cũng là tìm một lối sống khác (sống theo tình thương và chân lý). Cho nên giải thoát khác với thoát ly. Cuộc sống của mình từ bất tịnh trở thành thanh tịnh, từ khổ đau trở thành an lạc: đó là giải thoát.

Cái chán của đạo Phật là một thứ chán lành mạnh, bởi vì đối tượng của cái chán ấy là dục vọng. Chán mà không nản. Cái chán ở đời trái lại là cái chán bệnh tật, một thứ chán nản chủ trương buông xuôi hai tay. Những ai "chê" đạo Phật là chán đời hãy thử tập "chán" cái chán của đạo Phật trong giây lát xem có được không. Sợ là không, bởi vì lực lượng dục vọng nơi những kẻ kia không phải là nhỏ; muốn chán thì ít ra cũng phải tiêu diệt một phần nào các dục vọng ấy đã.

Tuy nhiên đó là nói về phương diện giáo lý xuất thế gian. Còn về phương diện thế gian, đại đa số nhân loại còn chưa đủ năng lực để đặt ngay vấn đề giải thoát. Họ phải thực hành giáo lý nhân thiên thừa, bỏ ác, làm lành, nuôi dưỡng trí tuệ và từ bi để đào luyện một căn cơ vững mạnh làm nền tảng cho giai đoạn xuất thế. Đặt vấn đề khổ đau cho họ trong khi họ đang còn yếu đuối thì chỉ làm cho họ thêm khổ đau mà thôi vậy.

Nguồn: buddhahome.net
Previous Post
Next Post