Nhân loại bước vào thiên niên kỷ
mới với một nền văn minh ngày càng rực rỡ. Khoa học hiện đại được xem gần như
là vạn năng, phục vụ mọi nhu cầu vật chất trong đời sống của con người. Thế
nhưng, con người đã thật sự hạnh phúc, thật sự chấm dứt khổ đau hay chưa? Đó là
điều chúng ta cần phải suy gẫm.
Đức Phật sau bốn mươi chín ngày
đêm thiền định dưới cội bồ-đề, khi sao Mai vừa mọc Ngài liền thành đạo và tuyên
bố: Như Lai là người đã diệt tận cội gốc vô minh, chấm dứt mọi khổ đau, thật sự
an vui giải thoát. Bài pháp đầu tiên tại vườn Lộc Uyển là bài Tứ Diệu Đế, đức
Phật nói về bốn chân lý chắc thật của cuộc đời là Khổ, Tập, Diệt, Đạo. Trong
đó, khổ là một lẽ thật của cuộc đời. Mới nghe qua, chúng ta thấy dường như đạo
Phật thật là bi quan. Nhưng đi sâu vào, thấm nhuần giáo lý của đức Phật rồi,
chúng ta thấy ngược lại. Bởi Phật nói khổ (khổ đế) là ở trên quả mà nói, vì quả
là cái người ta dễ thấy dễ biết. Khi biết được quả rồi, thì Ngài liền chỉ đến
nhân. Nguyên nhân nào tạo ra quả khổ ấy (tập đế). Khi biết rõ nguyên nhân rồi,
chúng ta liền dẹp hết nhân (đạo đế) thì khổ nhất định sẽ không còn, chừng ấy
quả an vui giải thoát sẽ hiện tiền (diệt đế). Vậy vui là mục đích đức Phật nhắm
đến, khổ là chỗ đức Phật chỉ ra để chúng ta tìm lại nguyên nhân và dẹp sạch nó
đi thì quả vui sẽ đến với chúng ta.
Các nhà khoa học cũng thế, luôn
luôn phăng tìm manh mối của vạn tượng sum la này; căn cứ trên quả mà phăng tới
nhân, không bao giờ đi từ nhân tới quả. Vì quả dễ thấy, dễ nói hơn nhân. Ví dụ
bây giờ chúng ta có quả cam ngon, người thưởng thức được quả cam sẽ hỏi: Quả
cam này từ đâu mà có? Tự nhiên chúng ta sẽ giải thích: Từ hạt cam ương lên, nẩy
mầm, ra cây, có lá, có hoa rồi kết thành trái. Vậy quả là cái hiện thấy, chứng
minh được. Còn nhân thì đã cũ đã xưa rồi, chúng ta khó có thể chỉ cho người
khác thấy tường tận được. Đó là việc cụ thể. Cho nên tinh thần Phật dạy rất
thích hợp với khoa học hiện giờ, hay ngược lại khoa học hiện giờ rất thích hợp với
tinh thần của đạo Phật. Vì thế, đạo Phật rất thực tế, luôn trung thực với cuộc
đời chớ không phải bi quan yếm thế như nhiều người vẫn nghĩ.
Có thể nói, trở lại phăng tìm cội
gốc của mọi sự khổ để diệt trừ nó, sống lại với con người chân thật của chính mình
là một việc làm khoa học trên khoa học. Tại sao chúng tôi dám nói như vậy? Là
vì khoa học tìm kiếm phát minh về vật chất để phục vụ cho con người vật chất.
Mà con người vật chất lại là một con người tạm bợ, vô thường, sáng còn tối mất.
Khoa học có thể cống hiến cho
nhân loại những thành tựu mới lạ tinh vi nhằm thỏa mãn cuộc sống tiện nghi cho
họ, nhưng không thể ngăn chặn được lòng tham lam, sân hận, si mê nơi con người.
Mà hễ còn tham lam, sân hận, si mê là còn khổ đau. Bởi vì với một con người đầy
dẫy tham sân si, thì càng phát minh chỉ càng đưa đến tranh đấu, giành giựt và
cuối cùng đi đến đánh nhau rồi chết chóc, thù hận mà thôi.
Thí dụ chỉ cần một trái bom
nguyên tử trong bàn tay của kẻ hiếu chiến thì không quá một phút, có cả hàng vạn
người tan nát ra tro, chưa kể đến những tổn thất vật chất khác nữa, thật là tội
lỗi! Như vậy khoa học chỉ càng gieo rắc khổ đau thêm cho nhân loại, chớ không
thể đem đến an vui hạnh phúc được. Nói như vậy không có nghĩa chúng tôi phủ
nhận những thành tựu lớn lao của khoa học. Nhưng nếu được vừa tìm lại mình, vừa
biết hết bên ngoài thì hay biết mấy! Đức Phật dạy chúng ta xoay lại chính mình
trước, đoạn tận mọi thứ phiền não si mê rồi thì tự nhiên sẽ chinh phục được vũ
trụ bên ngoài sau, là vì vậy.
Chúng ta dù biết hết cả vũ trụ ở
ngoài mà không biết mình thì đã thực tế đâu? Phát minh được những việc bên
ngoài, giúp đỡ cho cái thân tạm bợ mà cho là quan trọng, trong khi phát minh
cái chân thật bất sanh bất diệt của mình để nhận và sống được với nó thì chúng
ta lại xem thường, lại lơ là! Tại sao các nhà bác học giam mình trong phòng kín
nghiền ngẫm về một vấn đề nào đó thì cho là tích cực; trong khi ngồi lại, thiền
định yên lặng để tìm ra con người chân thật nơi mình thì lại xem là tiêu cực?
Như vậy cái nhìn của chúng ta có đúng không?
Đạo Phật là đạo của trí tuệ và từ
bi, đạo của giác ngộ giải thoát. Tất cả pháp môn của Phật dạy đều phải trở về
chỗ chân thật của mình bằng chính định lực và trí tuệ của mình. Trở về được chỗ
chân thật là an vui hạnh phúc, chấm dứt mầm mống của mọi sự khổ đau. Lúc đó,
chúng ta mới có thể thông cảm, tha thứ, thương yêu và giúp đỡ đồng loại như
chính bản thân mình. Cho nên chúng ta cứ cầu giải thoát, mà không biết giải
thoát ra sao, muốn được hạnh phúc mà không biết thế nào là hạnh phúc? Thật ra
hạnh phúc chân thật trong đạo Phật chính là giác ngộ giải thoát. Mà giải thoát
là biết cái hư giả của thân và tâm này, nên không còn lệ thuộc vào nó, không
chạy theo nó, không còn tạo nghiệp nữa. Không còn tạo nghiệp tức là không còn
khổ đau. Không còn khổ đau tức là hạnh phúc.
Với người biết tu thì cuộc sống
vật chất của thân tứ đại này không có gì quan trọng cả. Phải làm chủ được mình,
giúp mọi người cùng vượt lên trên những thứ phiền não trói buộc, sống an vui
giữa những thay đổi của cuộc đời, chết thảnh thơi nhẹ nhàng như thay một chiếc
áo mới, là mục đích chính của người tu Phật. Chúng ta nhìn lại xem những vị tu
hành thâm nhập đạo lý sâu, sống được với đạo, không bao giờ lắc đầu chặc lưỡi
thở dài, mà thường cười hoài. Bao nhiêu đó cũng đủ cho thấy đạo Phật đến với
cuộc đời như thế nào rồi. Đặc biệt là đạo Phật ở nước ta.
Trong thời Lý-Trần, đạo Phật được
xem như Quốc giáo. Với một nền giáo lý nhập thế cơ bản, Phật giáo Việt Nam luôn có
mặt, luôn gắn bó với vận mệnh của đất nước. Lúc thăng lúc trầm, khi ẩn khi
hiện, nhưng chưa bao giờ vắng thiếu trên đất nước ta. Đó chính là chân tinh
thần đạo pháp không lìa thế gian, không lìa cuộc đời mà có vậy. Nếu không thế
thì đạo Phật không thể tồn tại trong lòng dân tộc, trong lòng nhân loại được.
Cho nên khoa học càng tiến thì
nền tảng đạo đức của con người lẽ ra phải càng cao, giá trị tâm linh phải càng
sáng mới có thể dừng bớt những nguy cơ cho nhân loại. Nếu chúng ta chưa thấy rõ
tầm quan trọng đó thì nền khoa học hiện đại bước vào thế kỷ mới sẽ không thể
cứu vãn nhân loại thoát khỏi mọi thứ hiểm họa được. Thiên tai, bệnh tật, chiến
tranh, nghiện ngập v.v…. đều xuất phát từ một nền tảng đạo đức suy đồi, từ lòng
tham lam và si mê vô bờ của con người.
Chúng tôi thiết nghĩ, không thể
có được nguồn an vui hạnh phúc chân thật khi con người chưa nhận ra và diệt trừ
được nguồn gốc của khổ đau. Không thể có được một nền văn minh sáng rực khi giá
trị tâm linh của con người đã bị lu mờ. Muốn thế, nhân loại phải biết trở lại
với cái chân thật luôn hằng hữu bên mình. Bởi vì phát minh và làm chủ được
chính mình cũng có nghĩa là phát minh và làm chủ được toàn thể vũ trụ này.
Muốn thế, chúng ta hãy thử một
lần đến và chiêm nghiệm giáo lý của đức Phật bằng chính sự thực hành của mình
xem sao!