Người nghệ sĩ bi tráng không phải
là người bi quan; hắn chính là người chấp nhận tất cả sự việc khả nghi, chấp
nhận ngay cả những sự việc khủng khiếp. Hắn là người theo Dionysos.
Nietzsche (Die
Götzen-Dämmerung, 1889)
1.
Mùi thơm những cây chanh trổ hoa
quay cuồng người dân hải đảo. Những con lừa bước chậm chạp trên lối mòn hay
triền núi. Vài ba con dê cột bên sân nhà; bụi bay đầy đường. Những đống gạch
vụn, những đền đài sụp đổ. Mặt trời. Đá. Mây trắng. Biển. Những trái cây. Gió
biển mặn nồng, bụi đá thơm ngát, những người ăn mày rách rưới, những con gà tây
lủi trốn qua kẹt nhà.
Nghèo nàn, nóng bức, khô cằn,
nhiều trái cây, nhiều đứa con nít dơ bẩn chạy rong giữa chợ, những trái nho
khô, những chùm nho tươi, đôi má đỏ hồng của cô gái nhà quê, nụ cười thần thoại
của cụ già râu trắng, những đồi đá vôi chôn vùi nền văn minh thượng cổ của Địa
trung hải, nằm giữa Âu châu, Phi châu và Á châu.
Đó là đảo Crète, thuộc đất Hy
lạp, quê hương của Nikos Kazantzakis, văn sĩ, thi sĩ, triết gia, tư tưởng gia,
kịch sĩ, phê bình gia, dịch giả, chính trị gia. Nikos Kazantzakis là nhà văn
hoá nổi tiếng nhất của Hy lạp thế kỷ hai mươi.
Quê hương ông là nơi phát sinh ra
nền văn minh Tây phương, là một hải đảo muôn đời đón gió từ mười phương thổi
về; người con trai Hy lạp ấy đã lớn lên giữa những cơn gió thịnh nộ thổi từ
những lục địa xa xôi, giữa những tiếng sóng cuồng loạn của đại dương, dưới một
bầu trời xanh lơ đầy mây giang hồ và những cánh hải âu đen mướt.
Những buổi chiều trên bãi vắng,
lúc hãy còn trẻ, không biết Nikos Kazantzakis đã nghĩ những gì, khi ngắm nhìn
những cánh buồm trắng xuôi gió thấp thoáng bên kia chân trời?
Để rồi đi vào đời, Nikos Kazantzakis
trở thành con người nghệ sĩ điêu đứng, sống hốt hoảng với ý thức phân tán trước
sự sụp đổ của con người và nền văn minh hiện đại; suốt đời, Nikos Kazantzakis
chỉ là một cánh buồm say gió, trôi nổi bập bềnh trên đại dương của Hư vô, khát
khao hải đảo quê hương, nhưng hải đảo quê hương ấy cũng chỉ là thần thoại, bởi
vì quê hương không phải là nơi mà mình đã chào đời và con người vẫn nhớ quê
hương đang khi mình ở ngay nơi quê hương của mình; con người vẫn cảm thấy hoàn
toàn xa lạ nơi mình chào đời; có lẽ phải chăng lúc mình thở hơi cuối cùng là
lúc quê hương mới bắt đầu xuất hiện?
2.
Trong quyển Letter au Gréco,
Nikos Kazantzakis viết một câu văn rất giản dị mà ít người đọc để ý, ý nghĩa
thâm trầm phong phú vô cùng:
“Hãy cứng rắn, kiên nhẫn, chịu
khó… Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”
Những câu văn hay lời nói cũng
như những hạt giống, phải gieo đúng nơi, đúng lúc thì mới có thể trổ hoa đơm
trái.
Chỉ vào giờ đó, phút đó, với tâm
trạng đó, tôi mới thực sự nhận ra tất cả ý nghĩa kỳ lạ trong những lời nói câu
văn mà vào những lúc khác tôi chỉ thấy nó tầm thường nhạt nhẽo.
“Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”
Chỉ có Nikos Kazantzakis là mới
nói lời trên với nỗi lòng chua xót bi tráng.
“Hãy khinh bỉ hạnh phúc…”
Tất cả tư tưởng và tác phẩm của
Nikos Kazantzakis chỉ nói lên một câu nầy thôi.
Câu văn này chẳng những có nghĩa
là khinh bỉ sự hạnh phúc, mà còn có nghĩa là khinh bỉ cả sự khinh bỉ hạnh phúc,
vì không có sự hạnh phúc! Hạnh phúc chỉ là một danh từ rỗng, dùng để nói đến
một cái gì không có thực ở đời này.
Tại sao “hãy khinh bỉ”?
Tiếng “hãy” là tiếng kêu gọi, lời
thúc giục hay ra lệnh…
Tiếng “hãy” là tiếng gọi đứng
dậy, tiếng kêu bước chân, tiếng thúc giục lên đường, tiếng ra lệnh phóng chạy…
Chúng ta tự tạo ra một thế giới
ảo tưởng, rồi chui vào đó mà ngủ. Con người hiện nay đang nằm ngủ; con người
thế kỷ XX đang còn ngủ, chưa tỉnh thức; chúng ta đang chết, nguy hiểm nhất là
chúng ta không biết rằng chúng ta đang chết; chúng ta sống bạc nhược; đi đứng
mệt mỏi, hết hăng hái thiết tha; chỉ nhìn lại đằng sau, tiếc thương quá khứ;
mỗi buổi sáng thức dậy, chúng ta bị lôi vào một cuộc sống mà chúng ta không
biết đi về đâu; chúng ta chỉ còn những cử chỉ không hồn; tất cả chỉ là phản ứng
như một cái máy tự động; chúng ta nhìn sự vật chung quanh với đôi mắt thản
nhiên lạnh nhạt; không có gì có thể làm chúng ta ngạc nhiên nữa; tất cả chỉ là
tổng số những thói quen.
Chúng ta sống trong hiện tại mà
đầu óc cứ bị chìm ứ xuống vũng lầy của quá khứ; chúng ta vuốt ve dĩ vãng vàng
son; chúng ta chạy trốn hiện tại; chúng ta vuốt ve bản ngã nhỏ bé bằng cách gia
nhập những đoàn thể hay những công tác vĩ đại; chúng ta đồng hoá với một sự vật
bên ngoài để tâng bốc lòng quan trọng; chúng ta không dám sống, mà chúng ta
cũng không dám chết; chúng ta không dám đi, mà cũng không dám đứng; chúng ta
không dám nói mà cũng không dám yên lặng…
Chúng ta thích phàn nàn, than
thở, thích nói “chán quá, cô đơn quá, khổ quá," mà thực sự chúng ta không
hoàn toàn cảm thấy thế; những lời nói ấy chỉ là một mớ thói quen cần thiết để
chúng ta bám vào những làn khói thuốc; sự thực thì chúng ta đang chết trong đời
sống.
Chúng ta ăn mà không biết mình
đang ăn, uống mà không biết mình đang uống; chúng ta thấy mình nằm mộng trong
giấc mộng. Mộng của mộng!
Mỗi lời nói của chúng ta là những
lời lặp lại vô ý thức, mỗi lời phê phán của chúng ta là những lời nói bâng quơ
khờ khệch của một kẻ bước đi trong khi ngủ.
Tiếng “hãy” là một gáo nước lạnh
đổ vào mặt chúng ta, là một cái tát tai nẩy lửa, là cái đạp chân tống vào người
để chúng ta thức dậy, để chúng ta đứng dậy, rồi chạy… Đứng dậy mà chạy. Thôi đủ
rồi, ngủ đã nhiều rồi, chết đã nhiều rồi. Chúng ta hãy ào chạy, xô nhau chạy…
chạy rồi nhảy múa. Nhảy múa điên cuồng như bầy mọi da đỏ. Nhảy múa trên hoả
diệm sơn.
Cười, hét, tru, tréo, la, kêu,
rú, réo và cứ tiếp tục nhảy múa - Nhảy như điên, như loạn. Nhảy như Nijinsky.
Cứ tiếp tục nhảy múa đi.
Rồi chết.
Chứ đừng nằm dài than thở, đừng
khóc lóc, đừng chán nản. Đã hết cô độc, hết rồi cô đơn, hết rồi phi lý, hết rồi
hiện sinh khắc khoải, hết rồi hư vô, hết rồi đau khổ. Bản nhạc ấy cũ quá rồi,
cứ hát đi hát lại hoài. Tất cả đều lường gạt. Tất cả đều giả dối. TẤT CẢ ĐỀU
XÔNG LÊN MÙI CHẾT.
Hãy cười rú lên như điên và tiếp
tục nhảy múa.
Nhảy múa như bầy mọi Phi châu,
nhảy múa như bầy trẻ con, chứ đừng nhảy múa như những xác chết ở phòng khiêu vũ
tại Sài gòn.
“Hãy khinh bỉ” là gì? Thế nào là
“khinh bỉ”?
Sự khinh bỉ là một điều thiêng
liêng.
Sự khinh bỉ lên ngôi thượng đế.
Chúng ta hãy tôn thờ sự khinh bỉ.
Khinh bỉ, khinh bạc, khinh dễ,
khinh khi, khinh khỉnh, khinh mạn, khinh miệt, khinh suất, khinh thị, khinh
thường, kiêu căng, kiêu ngạo, kiêu dũng, kiêu hãnh, phách lối, ngạo mạn, xấc
xược. Tất cả những chữ này là những ĐỨC TÍNH thiêng liêng của những con người
dám sống và dám chết.
Chúng ta hãy khinh bỉ tất cả mọi
sự.
Chúng ta hãy khinh bỉ cả sự khinh
bỉ.
Nghĩa là CHÚNG TA HÃY KHINH BỈ CẢ
CHÚNG TA.
Khinh bỉ là đức tính đầu tiên và
cuối cùng của nhân loại: khinh bỉ sẽ là sức sống làm lại cuộc HỒI SINH NHÂN
LOẠI.
Trái đất này sẽ tan nát, thế giới
này sẽ sụp đổ, nhân loại sẽ bị tiêu diệt, nếu không còn những kẻ khinh bỉ trên
trần gian này.
Chúng ta hãy khinh bỉ tất cả mọi
giá trị: chúng ta hãy khinh bỉ tất cả những gì cao siêu nhất đời này; chúng ta
hãy khinh bỉ tất cả những vĩ nhân, tất cả những thiên tài; chúng ta hãy khinh
bỉ những kẻ vị tha, bác ái, nhân đạo. Chúng ta hãy khinh bỉ những kẻ xây dựng;
đồng thời, chúng ta hãy khinh bỉ những kẻ phá hoại. Chúng ta hãy khinh bỉ những
nhà đạo đức và khinh bỉ những kẻ chống đạo đức.
Khinh bỉ hết tất cả.
Và quan trọng nhất là chúng ta
phải khinh bỉ chính bản ngã, bản thân chúng ta; hãy khinh bỉ đời sống chúng ta,
hãy khinh bỉ lời nói chúng ta, hãy khinh bỉ sự im lặng của chúng ta, hãy khinh
bỉ lòng nhân đạo của chúng ta, lòng yêu người của chúng ta, lòng ái quốc, lòng
xây dựng xã hội, tình thương, lòng tương thân tương ái, lòng khiêm tốn nhún
nhường, sự cao thượng, đức danh dự.
Hãy khinh bỉ tình yêu, hãy khinh
bỉ tất cả những người con gái, hãy khinh bỉ văn chương, triết học, hãy khinh bỉ
những thi sĩ, hãy khinh bỉ những quyển tiểu thuyết, những bài khảo luận (như
bài này).
Hãy khinh bỉ Nikos Kazantzakis,
Henry Miller.
Hãy khinh bỉ Heidegger, Camus,
Nguyễn Du. Tóm lại HÃY KHINH BỈ HẠNH PHÚC. Thế nào là “hãy khinh bỉ hạnh phúc”?
Sự khinh bỉ chính là sự hạnh
phúc: vì thế, chúng ta cần phải khinh bỉ cả sự khinh bỉ ấy nữa! Sự khinh bỉ
phải đi đến cùng tận, để rồi biến mất luôn mà đi vào cõi hư không của vạn vật.
Lúc bấy giờ, tất cả đều huyền bí (huyền chi hựu huyền), không còn phân biệt đối
đãi, sắc tức thị không, nói như Heidegger thì Sein tức là Nichts và sự KHINH BỈ
CHÍNH LÀ SỰ KÍNH TRỌNG.
Hạnh phúc là gì?
Hạnh phúc là nhà điên. Hạnh phúc
là chết trong khi còn có thể sống được. Hạnh phúc là đầu hàng trước xã hội.
Hạnh phúc là sự chạy trốn. Hạnh phúc là đánh mất cá tính độc đáo của mình. Hạnh
phúc là đứng lại, không dám nhảy tới, phóng tới. (Heidegger: Entwurf).
Hạnh phúc là ảo tưởng của ảo
tưởng, mộng của mộng. Hạnh phúc là luân hồi, là hoả ngục nơi cuộc sống này.
Khi chúng ta còn bé nhỏ, chúng ta
không đau khổ, không hạnh phúc; tâm hồn ngây thơ hồn nhiên như con chim hót
trên cành, lòng trẻ thơ là mặt hồ trong suốt không gợn sóng, in hình mây trời
trắng bạch; bầu trời xanh biếc rọi trọn vẹn vào hồn, nhưng thế rồi lúc chúng ta
vừa lớn khôn, lúc mà ý thức bắt đầu trưởng thành thì lúc bấy giờ mặt hồ đã nổi
sóng tơi bời, bão tố vụt bừng dậy hãi hùng.
Ý thức là hạnh phúc, mà ý thức
lại chạy đi tìm hạnh phúc, thế là ý thức trở nên không hạnh phúc. Ý thức đi tìm
hạnh phúc, mà càng đi tìm lại càng tìm không được, vì hạnh phúc không ở ngoài ý
thức vì hạnh phúc là ý thức, ý thức chạy đi tìm ý thức, mình chạy đi tìm mình; mình
chạy đi tìm mình thì không thể nào tìm được.
Khinh bỉ hạnh phúc có nghĩa là
không chạy đi tìm nữa. Khinh bỉ hạnh phúc có nghĩa là MÌNH ĐỨNG LẠI NHÌN MÌNH.
Khi mình nhìn lại mình thì mình sẽ gặp lại mình. Tìm gặp lại mình thì tìm gặp
cái mình đang tìm. Như thế mình chỉ có thể tìm được là khi mình không còn chạy
đi tìm nữa. Đó là chân lý, mặc dù mâu thuẫn, khó hiểu nhưng mầu nhiệm vô cùng.
“Hãy khinh bỉ hạnh phúc”. Đây là
một trong những chân lý cao siêu của Nikos Kazantzakis.
Câu này có thể giúp ta nhìn ra
chân lý mầu nhiệm của cuộc đời.
Bằng cách nào?
Bằng cách thực hiện câu “hãy
khinh bỉ hạnh phúc” không phải bằng lời nói, mà bằng tất cả bản thân mình, bằng
cả đời sống mình, bằng cả máu lệ tinh thành; đánh cả một ván đời để đổi lấy câu
“hãy khinh bỉ hạnh phúc”, như trường hợp Nietzsche hay Van Gogh hay Rimbaud hay
Nikos Kazantzakis, hay một cách tuyệt đối tận cùng như Phật Thích Ca, như chúa
Jésus, như François d’Assise, như Henry Miller…
3.
Kazantzakis đã từng chịu ảnh
hưởng sâu đậm của Nietzsche. Nikos Kazantzakis và Nietzsche giống nhau như con
giống cha. Kazantzakis tôn thờ Nietzsche như con người tiền sử tôn thờ mặt
trời. Đời Nietzsche và đời Kazantzakis là cả một chuỗi dài chấp nhận và chối
bỏ.
Kazantzakis chấp nhận Nietzsche,
rồi chối bỏ Nietzsche. Kazantzakis chấp nhận Chúa Jésus, rồi chối bỏ Chúa
Jésus. Kazantzakis chấp nhận đức Phật, rồi chối bỏ đức Phật. Kazantzakis chấp
nhận Lénine, rồi chối bỏ Lénine.
Kazantzakis chấp nhận cuộc đời,
rồi chối bỏ cuộc đời mà đi vào cõi chết… Tiến trình biện chứng vẫn ngự trị trần
gian.
Chấp nhận tức là hạnh phúc; chối
bỏ sự chấp nhận ấy có nghĩa là khinh bỉ hạnh phúc. Khinh bỉ sự hạnh phúc là
nhìn thẳng vào sự chết, không chạy trốn cái chết mà lại phỉ nhổ vào mặt sự
chết.
Đó là tất cả sự vĩ đại của Nikos
Kazantzakis, tất cả nỗi bi tráng cực độ của người con trai đất Hy lạp, quê
hương của Homère, Eschyle, Sophocle, Euripide.
“Vào những khoảnh khắc khủng
khiếp và bất ngờ, một luồng ánh sáng vụt loé qua ý thức tôi: tất cả những cái
ấy chỉ là một trò chơi tàn bạo và phù phiếm, vô thuỷ vô chung, hoàn toàn không
có ý nghĩa gì cả” (Nikos Kazantzakis, Ascèse trang 47 – 48).
Cuộc đời chỉ là một trò chơi.
Thiên đàng hay địa ngục gì cũng
nằm trong trò chơi ấy.
Tất cả đều là một trò đùa, một
trò chơi tàn bạo và phù phiếm. Tôi bị lôi cuốn vào trò chơi ấy, dù muốn hay
không.
Nhìn đời với đôi mắt của một kẻ
nằm trong cuộc chơi, đó là ý thức đầu tiên của những tâm hồn bi tráng.
Cuộc đời chỉ là một trò chơi tàn
bạo và vô ích, không có sự bắt đầu, không có sự chấm dứt, hoàn toàn vô nghĩa.
Với ý thức như thế, tôi sẽ không
còn tạo cho mình những ảo tưởng xa xôi, những bến bờ hạnh phúc mà tôi không bao
giờ đạt đến.
Thiên đàng chỉ nằm trong đầu,
thiên đàng không phải ở trên bầu trời xanh lơ kia. Thiên đàng chỉ nằm trong
cuộc chơi tàn bạo của giòng đời.
Con người nhào mình vào cuộc chơi
mà hắn biết rằng phù phiếm và tàn bạo; nhưng vì hắn là người, hắn không thể
thoát ra ngoài vòng cuộc chơi ấy.
Đó là tâm thức bi đát của con
người; niềm bi đát ấy trở thành bi tráng, khi con người nhìn thẳng vào sự thực
và không nuôi những ảo tưởng, khi con người yêu trò chơi ấy và dự vào cuộc chơi
ấy với tất cả mê đắm say sưa của đời mình, mặc dù biết rằng cuộc chơi ấy là phù
phiếm, tàn bạo và vô nghĩa.
Biết rằng cuộc đời là vô nghĩa,
nhưng vẫn sống một cách say sưa. Biết rằng việc làm vô ích nhưng vẫn làm một
cách hăng say. Biết rằng trò chơi ấy nguy hiểm, nhưng vẫn lăn vào trò chơi ấy
với trọn vẹn hồn nhiên của đời mình. Đó mới là sức sống bi tráng của con người.
“Điều tôi quan tâm không là con
người, không phải là mặt đất, không phải là bầu trời, mà là ngọn lửa thiêu đốt
con người, mặt đất và bầu trời” (Nikos Kazantzakis, Toda – Raba, trang 113).
Ngọn lửa ấy là gì? Phải chăng là
SỨC SỐNG BI TRÁNG của vũ trụ, của trần gian, của con người?
Sức sống bi tráng là ngọn lửa
thiêu đốt cả vũ trụ và con người. Sức sống bi tráng là hơi thở của Thần linh,
của Hư vô, của Đại Ngã và Thần Ngã.
Nietzsche đã thổi sức sống bi
tráng vào tâm hồn Nikos Kazantzakis:
“Nietzsche đã làm phong phú tâm
hồn tôi bằng cách cung cấp cho tôi những vũ khí để lăn vào những cuộc chiến đấu
mới; chính Nietzsche đã dạy tôi biến đổi nỗi đau khổ, niềm cay đắng và lòng
lưỡng lự thành ra sự kiêu hãnh” (Nikos Kazantzakis), và sức sống bi tráng ấy đã
thiêu đốt cuộc đời Nikos Kazantzakis; ông chạy quanh quẩn suốt đời trong những
nẻo đường hư vô mà vẫn giữ trong tim một niềm kiêu hãnh vĩ đại của con người bị
diệt, nhưng vẫn không chịu thua, của một kẻ đau khổ quằn quại, nhưng vẫn từ
chối thiên đàng.
4.
Trong quyển tiểu thuyết Alexis
Zorba, Nikos Kazantzakis đưa ra hai nhân vật trái ngược hẳn nhau: một người là
trí thức, người kia là công nhân. Anh công nhân tên là Alexis Zorba. Người trí
thức ấy chỉ biết sống với sách vở; đầu óc đầy ứ những tư tưởng trừu tượng; trái
lại Alexis Zorba thì không đọc sách báo gì cả, đầu óc Alexis Zorba chứa đầy
những ý nghĩ thực tiễn hay là không chứa một ý nghĩ nào cả, hoàn toàn trống
rỗng thanh tịnh. Kẻ tri thức kia quên sống, hắn đi bơ phờ trong thế giới tư
tưởng, suốt ngày hắn cứ bận bịu với triết lý này, triết học kia. Còn Alexis
Zorba sống mãnh liệt và trọn vẹn với đời mình, Alexis Zorba chỉ sống chứ không
suy nghĩ; trái lại, kẻ trí thức chỉ nghĩ chứ không sống. Alexis Zorba hưởng thụ
cuộc đời một cách say đắm triền miên; còn kẻ trí thức kia chỉ là một xác không
hồn bước đi hững hờ trong cuộc đời. Alexis Zorba hoàn toàn là đứa con của lòng
đất; Alexis Zorba cúi quỳ hôn lòng đất: còn kẻ trí thức kia chỉ biết chạy đuổi
theo một ốc đảo ở sa mạc và suốt đời không bao giờ tìm được.
Alexis Zorba là con người hoàn
toàn hồn nhiên giản dị, chỉ biết ăn, uống, ngủ, đi đứng, làm ái tình, ca hát,
nhảy múa, say sưa làm việc. Còn kẻ trí thức kia quên ăn, quên uống, quên ngủ,
quên đi đứng, không dám làm ái tình, không biết ca hát, không nhảy múa và chỉ
làm việc một cách mệt nhọc chán chường.
Kẻ trí thức kia cẩn thận, dè dặt,
giữ gìn, chín chắn, tâm hồn đầy mặc cảm. Alexis Zorba dám làm tất cả mọi sự,
không dè dặt, không giữ gìn; Alexis Zorba lăn vào cuộc đời như một chiến sĩ
kiêu dũng lăn vào trận địa; Alexis Zorba nhảy trên những xác chết của quá khứ,
say sưa hò hét trong cuộc sống điên cuồng hiện tại.
Nikos Kazantzakis đã dựng hình
ảnh Alexis Zorba giữa nền văn minh trí thức thời đại, một hình ảnh hiên ngang
bất khuất sống động, tượng trưng cho sự phục hồi sinh lực của truyền thống Tây
phương ở vào chặng cùng đổ vỡ.
Truyền thống tư tưởng tây phương
đang bị lôi cuốn trong sự độc tôn của lý trí; lý trí đồng nghĩa với ảo tưởng,
lý trí chặn đứng sức sống tràn lan của con người, lý trí phá hủy hồn thơ lai
láng của vũ trụ, lý trí chỉ biết chia xén, phân hai, phân biệt, phân tích, lý
trí tạo ra ảo tưởng của ảo tưởng, rồi sau cùng chính lý trí quay lại chống lý
trí; đó là mối mâu thuẫn vĩ đại không thể nào vượt qua được, nếu con người vẫn
nằm ngủ trong giấc mộng của giấc mộng.
Alexis Zorba của Nikos
Kazantzakis là hiện thân của sự chống đối lý trí; chống đối lý trí không có
nghĩa là ca ngợi sự ngu muội; mà là ngược lại thế, bởi chính lý trí là sự ngu
muội, một thứ ngu muội trá hình, và vì trá hình, sự ngu muội ấy trở nguy hiểm
vô cùng.
Alexis Zorba là một kẻ tỉnh ngộ:
nói theo danh từ Phật giáo Thiền tông thì Alexis Zorba đã đi đến Satori (Ngộ).
Alexis Zorba là con người lý tưởng mà Kazantzakis muốn đạt tới.
Nikos Kazantzakis từ bỏ thiên
đàng để trở về quì hôn lòng đất mến yêu. Nikos Kazantzakis chối từ tất cả những
ảo tưởng, kẻ cả ảo tưởng về sự chối từ! Nikos Kazantzakis đi tìm một giải đất
mới nhưng giải đất ấy không nằm trong không gian, bởi vì: “giải đất mới chỉ có
trong lòng người” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).
Ta phải quay trở về tìm giải đất
mới ấy trong lòng người, ta phải đi tìm Tịnh độ trong Tâm; vì Tâm chính là Tịnh
độ.
“Bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm, một cách im lặng, một cách rộng lượng và không hy vọng”.
(Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang
56).
“Bổn phận mi là…”
Bổn phận, nghĩa vụ, chức phận…
Bổn phận mi là…
Phận mình là…
Phận là điều mình không thể không
làm; phận là một việc tất yếu, một sự bắt buộc, một việc quy định.
Bổn phận nằm trong thân phận làm
người của mình. Bổn phận có thể nói là xác định tính chất của thân phận con
người. Bổn phận là một điều bắt buộc, một điều kiện tất yếu làm con người trở
thành con người. Chấp nhận bổn phận là chấp nhận sự thực không thể tránh. Từ
chối bổn phận là chạy trốn. Chạy trốn cái gì?
Chạy trốn mình.
Chạy trốn chất tính của mình là
con người.
Con người dính liền với thân phận
con người, bổn phận là thái độ sống riêng đưa con người trở về con người. Bổn
phận có tính cách độc đáo riêng biệt; phận là phận của riêng tôi, của mình tôi
nên gọi là phận mình, tức là bổn phận; phận là một sự bắt buộc; phận có nghĩa
là chức vị của người; nói rộng hơn, phận chính là người vì chức vị của người
(phận) và người chỉ là một; người không có chức vị của người không thể gọi là
người, không thành ra người. Nói đến người là mặc nhiên đã nói cái điều làm cho
con người trở thành người, tức là phận, nói rõ hơn là bổn phận.
Phận là một điều tất nhiên, một
sự đã qui định từ khi tôi mở mắt chào đời và qui định trọn vẹn từ khi ý thức
tôi đã trưởng thành.
Mỗi người tự nhận phận mình (bổn
phận).
Người khác không có quyền bắt
buộc tôi làm bổn phận tôi, vì bổn phận đã là một sự bắt buộc của tôi đối với
chính tôi. Sự bắt buộc của người khác xâm phạm đến chức vị của người tôi; chính
sự bắt buộc ấy thay thế sự bắt buộc của riêng tôi, vì thế người khác đã đánh
mất chức vị của người tôi, vì chức vị của người tôi là sự bắt buộc của riêng
tôi đối với tôi.
Người khác bắt buộc tôi làm bổn
phận tôi, nghĩa là người khác đã làm tôi đánh mất bổn phận tôi rồi!
Ái quốc hay không ái quốc, đó là
bổn phận riêng tôi. Người khác không được quyền bắt buộc tôi ái quốc và nói
rằng như thế mới là bổn phận tôi; khi có sự tham dự trực tiếp của người khác
vào bổn phận tôi thì tôi đã xa lìa bổn phận rồi, vì bổn phận là phận của riêng
mình tôi.
Ái quốc, hy sinh, phụng sự xã
hội, vâng lời cha mẹ, hiếu thảo, trung thành, vân vân; người khác không được
quyền nói những thứ này là bổn phận của tôi. Nói đến bổn phận là nói đến sự cô
đơn tuyệt đối của tôi, của riêng tôi đối với tôi; vì thế, người khác đứng ngoài
vòng và chẳng có liên hệ gì với tôi cả; người khác chỉ có liên hệ với tôi là
sau khi tôi đã nhìn lại bổn phận (hay là không nhìn lại thì cũng thế).
Tôi nói với tôi như sau:
“bổn phận của mi là…”
Tôi không thể nói như vầy với
người khác:
“bổn phận của anh là…”
Nói như thế là trực tiếp phá hủy
bổn phận của người khác, là xâm phạm chức vị làm người của người khác.
Nikos Kazantzakis tự nói với mình
rằng:
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm…”
(Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang
56).
Nikos Kazantzakis không nói:
“bổn phận của mi là ái quốc,
thương người, phụng sự, làm việc, vâng lời, giúp đỡ, hay trung thành vân vân…”
Nikos Kazantzakis lại nói:
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm”
thế là Kazantzakis đã đập vào
trung tâm điểm của ý thức con người; lên đường đi đến hố thẳm là bổn phận quan
trọng nhất của tôi; tất cả những thứ khác chỉ là phụ thuộc.
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm”.
Đó là ý thức tiên khởi mà tôi
phải nhìn nhận cho riêng tôi; bổn phận của tôi là thế, vì vậy, tôi phải làm bổn
phận ấy cho riêng tôi; chính tôi phải làm tròn bổn phận ấy. Làm tròn cái gì?
Làm tròn bổn - phận – lên - đường
– đi - đến- hố - thẳm.
Không làm tròn bổn phận này là
chạy trốn; không làm tròn bổn phận này là không xứng đáng được gọi là người;
không làm tròn bổn phận này là đánh mất chức vị làm người, là tự dối, tự lường
gạt mình.
Người chỉ là người, khi người làm
bổn phận; bổn phận chỉ là bổn phận khi bổn phận lên đường đi đến hố thẳm.
Sự kiện lên đường đi đến hố thẳm
là một thực tại; từ chối thực tại là nuôi ảo tưởng, là tự đánh lừa.
Người dính liền với việc lên
đường đi đến hố thẳm. Heidegger có từ ngữ “Sein zum Tode” (Tính hướng tử hay
hướng tử tính; Pháp gọi là “L‘être-pour-la-mort”). Ta bắt chước Heidegger mà
đặt từ ngữ mới cho ý nghĩa câu văn trên của Kazantzakis là “Sein-zum-Abgrund”
(tính hướng huyệt hay hướng huyệt tính; dịch ra Pháp ngữ là:
“l‘être-pour-l‘abïme”.
Người vừa mới chào đời là đã lên
đường đi đến hố thẳm.
Người thực sự người là lên đường
đi đến hố thẳm; người không thực sự người là kẻ chạy trốn vào cuộc sống thường
nhật của thiên hạ (“ le On de la banalité quotidienne”) và không chịu nhận mình
để lên đường đi đến hố thẳm. Việc lên đường đi đến hố thẳm là một sự bắt buộc,
một sự thực bắt buộc; nhưng sự bắt buộc ấy trở thành sự tự do khi tôi bắt buộc
cho riêng tôi.
Nếu để người khác bắt buộc tôi
hay nếu sự bắt buộc ấy xảy đến tôi ngoài ý muốn của tôi hay nếu tôi không tự
bắt buộc cho riêng tôi, thì sự bắt buộc ấy trở thành sợi dây trói buộc tôi lại,
quăng tôi xuống hố thẳm như quăng một con vật, làm tôi mất sự tự do và đánh mất
chức vị làm người của tôi.
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm”
Khi tôi chịu làm bổn phận lên
đường đi đến hố thẳm thì tôi trở thành con người tự do, sự tự do này mới đúng
nghĩa là tự do thực sự, vì dù có ở trong tù, tôi vẫn có thể tự do; và những con
người sống bên ngoài kia, họ tưởng là họ tự do, nhưng thực ra, họ bị nhốt bưng
bít trong cuộc sống thường nhật nhạt nhẽo của thiên hạ “le On de la banalité
quotidienne”; (Heidegger gọi là “Das Man”).
Tự do của tôi là tự do thực sự;
bởi vì tôi biết rằng tôi lên đường đi đến hố thẳm cho nên tôi tự do, tôi chỉ
được tự do thực sự khi sự tự do của tôi là tự do trước hố thẳm, bắt chước từ
ngữ của Heidegger mà gọi là: “Freiheit zum Abgrund” (Heidegger: Freiheit zum
Tode”).
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm”.
Nikos Kazantzakis tự nói như thế.
Nhưng lên đường đi đến hố thẳm
bằng cách nào?
Nikos Kazantzakis tự nói thêm:
“một cách im lặng...”
Như thế nghĩa là gì?
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm, một cách im lặng…”
Im lặng là không nói, không nói
là không dùng lời, không diễn tả, không bào chữa, không bênh vực.
Im lặng chẳng những có nghĩa là
không nói, mà còn có nghĩa là không không-nói.
Im lặng ở đây không chỉ có nghĩa
là im lặng suông, vì im lặng ở đây có nghĩa là im lặng luôn cả sự im lặng!
Im lặng luôn cả sự im lặng là
không còn tiếng nói, cũng không còn tư tưởng, không còn suy nghĩ, không còn trí
nhớ, nói gọn lại là tiến trình ý thức ngừng lại.
Im lặng có nghĩa là sự im lặng ý
thức hay là ý thức im lặng.
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm, một cách im lặng…”
Nikos Kazantzakis nói thêm:
“không hy vọng…”
Tôi lên đường đi đến hố thẳm một
cách im lặng, và không hy vọng.
Đó là điều hiển nhiên.
Im lặng mà còn có hy vọng, thì
chưa hẳn là im lặng.
Hy vọng nuôi ảo tưởng, ảo tưởng
trong thời gian.
Còn hy vọng là còn lường gạt, là
còn ý thức; ý thức lường gạt ý thức bằng cách phóng tới đằng trước nhờ hy vọng;
còn hy vọng thì chưa giải thoát; hy vọng là triển hạn; triển hạn là hạnh phúc;
khinh bỉ hạnh phúc là không hy vọng, là mở đường giải thoát; hy vọng triển hạn
và chận đứng sự giải thoát: hy vọng giải thoát là chưa được giải thoát.
Đến bao giờ mới được giải thoát?
Chỉ đến lúc không còn hy vọng
giải thoát, ta mới được giải thoát. Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ…
Chỉ đến lúc tôi không còn mộng sự
tỉnh thức, tôi mới thức tỉnh.
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng…”
Nikos Kazantzakis còn nói thêm:
“một cách rộng lượng”.
Tôi đi đến hố thẳm, một cách im
lặng, không hy vọng và một cách rộng lượng.
Rộng lượng hay nhân từ cũng gần
nghĩa với nhau.
Rộng lượng ở đây có nghĩa là rộng
lượng mà không có đối tượng, vì tôi đang lên đường đi đến hố thẳm. Rộng lượng
là mối tình bao la mênh mông; rộng lượng là xoá bỏ sự cố chấp, rộng lượng có
đối tượng hãy còn là rộng lượng có sự cố chấp; tôi rộng lượng với người khác
nghĩa là tôi còn chấp vào chính sự rộng lượng ấy, nghĩa là tôi còn phân biệt
người khác với tôi và sự rộng lượng của tôi đối với người khác là một sự phân
biệt ngụy trang. Rộng lượng còn phân biệt tôi với người khác thì vẫn chưa là
rộng lượng.
Rộng lượng đồng nghĩa với sự
không phân biệt; rộng lượng không phân biệt mới thực sự là rộng lượng; như thế,
rộng lượng không có mục đích; rộng lượng mà có mục đích, dù mục đích ấy là sự
rộng lượng thuần túy thì rộng lượng chưa thuần tuý là rộng lượng.
Rộng lượng chính là sự im lặng;
rộng lượng chính là không hy vọng. Rộng lượng mà còn hy vọng thì chưa phải rộng
lượng; ý thức rằng tôi rộng lượng thì chưa phải là rộng lượng; rộng lượng đồng
nghĩa sự im lặng ý thức.
Con đường đi đến hố thẳm gồm có 3
lối.
trí và tình: im lặng
trí: không hy vọng
tình: rộng lượng
Đó là cố gắng phân chia cho dễ
hiểu; nói một cách tuyệt đối thì con đường đi đến hố thẳm không có lối, vì còn
có lối là còn hy vọng, mà còn hy vọng là không thể rộng lượng, vì rộng lượng
còn hy vọng là rộng lượng chưa trọn vẹn và ý thức chưa im lặng.
“bổn phận của mi là lên đường đi
đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng”.
Hố thẳm ở đây không phải là địa
điểm hay mục đích. Không phải hố thẳm ở một nơi chốn nào đó và bổn phận của tôi
là đi đến hố thẳm ấy.
Hố thẳm ở đây không nằm trong
không gian và sự-lên-đường-đi-đến không nằm trong thời gian; bởi vì chính
việc-lên-đường-đi là hố thẳm, và hố thẳm chính là sự im lặng, là sự rộng lượng,
và không hy vọng. Phương tiện (một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng
lượng) chính là cứu cánh (hố thẳm), hành động (sự lên đường đi đến) chính là
mục đích (hố thẳm). Phương tiện là cứu cánh; hành động là mục đích.
Chúng ta hãy lập lại trọn câu văn
của Nikos Kazantzakis: “giải đất mới chỉ có trong lòng người… bổn phận của mi
là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng
lượng” (Ascèse, trang 56).
Như thế, tôi thấy rõ nghĩa như
vầy:
giải đất mới là lòng người;
lòng người là hố thẳm
đi tìm giải đất mới là đi tìm
lòng người;
lòng người là lòng mình;
bổn phận mình là đi tìm lòng
mình;
tìm lòng mình là lên đường đi đến
hố thẳm;
sự đi tìm ấy chính là lòng mình;
lòng mình chỉ là lòng mình, khi
lòng mình im lặng, rộng lượng, không hy vọng;
lòng mình là giải đất mới;
giải đất mới là sự giải thoát.
“giải đất mới chỉ có trong lòng
người… bổn phận của mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy
vọng, một cách rộng lượng” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).
Trong quyển tiểu thuyết Le Christ
Recrucifié, Nikos Kazantzakis đã dựng lên một nhân vật lạ thường, tên là
Manolios, Manolios chính là hình ảnh con người lên đường đi đến hố thẳm;
Manolios đi lại con đường của chúa Jésus; Manolios lên đường bước đến hố thẳm
một cách im lặng, không hy vọng, một cách rộng lượng. Manolios đã sống một đời
thánh thiện trong sạch và đã hy sinh chịu chết để chuộc tội lỗi của con người.
Trước khi hoàn toàn quyết định
sống cuộc đời của một kẻ lên đường đi đến hố thẳm, Manolios kể lại câu chuyện
ngụ ngôn cho các bạn thân thiết để nói qua về sứ mạng của chàng:
“Tôi sẽ kể cho bạn nghe một câu
chuyện về một thầy tu kia… Giấc mộng lớn của đời thầy là được Thượng đế cho đi
hành hương đến quỳ lạy trước thánh mộ của Chúa Jésus. Thầy đi khắp nơi trong
những thôn làng để xin của bố thí. Sau nhiều năm dài, lúc đó thầy đã già, thầy
thu góp được một số tiền khá lớn vừa đủ để lên đường hành hương. Thầy ăn năn
khổ hạnh, xin phép thầy bề trên rồi lên đường hành hương… Vừa bước ra khỏi tu
viện, thầy gặp một người nghèo khổ ăn mặc rách rưới, xanh xao, gầy yếu, trong
thê thảm đau đớn vô cùng mà đang cúi xuống đất nhỏ cỏ. Người ấy nghe tiếng gậy
của thầy vang lên trên đá, liền ngước đầu lên và hỏi: “Linh mục đi đâu đó? Thầy
trả lời: “Tôi đi đến thánh mộ của Chúa. Tôi sẽ đi ba vòng quanh Thánh mộ và quì
lạy. Người ấy hỏi : “Linh mục có bao nhiêu tiền?” Thầy trả lời: “Một số tiền
khá lớn”. Người ấy nói: “Linh mục hãy cho tôi số tiền ấy đi; tôi có vợ và một
bầy con đang chết đói, linh mục hãy cho tôi số tiền ấy đi; đi ba vòng quanh
tôi, rồi quì và lạy trước tôi”. Thầy lấy tiền ra và đưa hết cho người nghèo ấy,
thầy đi ba vòng quanh kẻ ấy, rồi quì gối và cúi lạy. Sau đó thầy đi trở về tu
viện”.
Manolios im lặng, rồi nói tiếp:
“Buổi chiều nay, sau nhiều năm
trôi qua, tôi mới hiểu rằng người nghèo khổ ấy là ai”.
Mấy người bạn hỏi:
“Người nghèo khổ ấy là ai?”
Manolios lưỡng lự. Sau cùng, một
cách im lặng, như một trái chín ban đêm rụng trong vườn, Manolios trả lời:
“Đó là Chúa Ki Tô.”
Một lúc sau, Manolios giải thích:
“Như vị thầy tu kia, tôi đã xây
bao nhiêu là kế hoạch to lớn, đang khi tôi chỉ là một thằng tầm thường: chuồng
cừu của tôi vẫn chưa đủ đối với tôi, tôi nóng lòng muốn đáp tàu to lớn, muốn đi
đến tận địa cầu để tìm giải thoát cứu rỗi. Tôi cho rằng thánh mộ của Chúa nằm
rất xa xôi trùng điệp, ở tận địa cầu, và tôi đã khinh bỉ mảnh đất nhỏ bé này mà
Thượng đã đặt ném tôi vào… Nhưng bây giờ tôi đã hiểu: Chúa Ki Tô ở khắp nơi
trên trần gian này, ở cận nơi lòng ta. Trong thôn làng giàu sang này, Chúa Ki
Tô đang nghèo đói, không nơi trú ẩn. Chúa nghèo và có một bầy con đang đói.
Chúa đi ăn mày, gõ cửa từng nhà, gõ cửa từng lòng, và người ta xua đuổi Chúa,
người ta đuổi Chúa từ nhà này đến nhà khác, từ lòng này đến lòng khác” (Nikos
Kazantzakis, Le Christ Recrucifié, trang 274-276).
Những lời nói trên của Nikos
Kazantzakis đã làm sáng tỏ ý nghĩa câu:
“Giải đất mới chỉ có trong lòng
người…”
Thánh địa không phải ở tận bên Do
thái, thánh địa ở đây, nơi lòng ta “Tuỳ kỳ tâm tịnh, tức Phật độ tịnh”
Khi tôi không hiểu Tự Tánh, tôi
chạy loanh quanh khắp mọi phương trời để tìm giải thoát, tôi cho rằng giải đất
mới (hay thiên đàng) ở xa lắm, tận bên kia chân trời; cũng như vị thầy tu kia
đi tìm cứu rỗi tận thánh mộ xa xôi, tôi chạy đi tìm khắp nơi, cầu Đông cầu Tây
nhưng thực ra thì “giải đất mới chỉ có trong lòng người”, chứ không phải ở nơi
nào cả.
Có nên nhắc lại lời của đại sư
Huệ Năng, lục tổ Thiền tông: “Phàm phu bất liễu tự tánh bất thức thân trung
tịnh độ, nguyện Đông nguyện Tây; ngộ nhơn tại xứ nhứt”, kẻ tầm thường chẳng
hiểu tự tánh, chẳng biết cõi Tịnh độ là ở trong thân mình, mà cầu Đông cầu Tây,
chứ người đã tỏ ngộ thì chỗ nào cũng vậy thôi (Pháp bảo đàn kinh, phẩm quyết
nghi).
Ta hãy suy tưởng ba câu văn dưới
đây:
“thân trung Tịnh độ” và “Thiên
đường chỉ tại mục tiền” (Huệ Năng, Pháp bảo đàn kinh)
“nước Chúa Trời ở trong lòng các
ngươi” (Thánh kinh, Tân ước, Lu ca, 17, 21)
“giải đất mới chỉ có trong lòng
người” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).
Khi biết rằng: “Chúa Ki Tô ở khắp
nơi trong lòng thế gian này, Chúa Ki Tô ở cận ngay nơi lòng ta” (Nikos
Kazantzakis, Le Christ Recrucifié, trang 276), thì Manolios đã quyết định làm
gì? Sau khi đã biết như thế, Manolios có bổn phận nào?
Nikos Kazantzakis để Manolios trả
lời cùng mấy người bạn đồng đường:
“Này anh em, tôi đã quyết định
thay đổi hoàn toàn lối sống của tôi, tôi quyết định cắt đứt quá khứ và đi theo
đấng Ki Tô trên dặm đường” (278).
Đi đâu?
Manolios trả lời:
“Đi đâu ư? Anh đã quên rằng vị
thầy tu kia đã tìm thấy thánh mộ ở đâu sao? Bất cứ người nào tranh đấu và đau
khổ trên một mảnh đất nhỏ, tức là người ấy đã tranh đấu và đau khổ trên trái
đất này. Tôi sẽ ở lại cùng các anh em mãi mãi! Ở nơi đây, nơi thôn làng này và
nơi núi này, trên giải đất chúng ta. Chính nơi đây là nơi tôi phải gieo và gặt;
chính nơi đây là nơi trời đã đặt để tôi, là nơi mà trời dạy tôi phải tranh đấu.
Mỗi một cục đất ở bất cứ nơi nào cũng đều là thánh mộ” (trang 278).
Ta hãy quì hôn lòng đất; mỗi mảnh
đất đều thiêng liêng.
Trong tập Ascèse (tâm thuật),
Nikos Kazantzakis viết nơi trang 46: “Không nổi loạn phù phiếm, và nhận những
giới hạn của trí thức con người và trong vòng giới hạn chặt chẽ ấy, hãy làm
việc không ngừng”.
Làm việc gì?
Làm việc giải thoát.
Làm việc giải thoát là gì?
“Một cách im lặng” là không nổi
loạn phù phiếm.
“Không hy vọng” là nhìn nhận
những giới hạn của trí thức con người.
“Một cách rộng lượng” là không
ngừng làm việc.
Bây giờ ý nghĩa phong phú của câu
văn này đã mở ra trọn vẹn.
“Giải đất mới chỉ có trong lòng
người… Bổn phận mi là lên đường đi đến hố thẳm, một cách im lặng, không hy
vọng, một cách rộng lượng” (Nikos Kazantzakis, Ascèse, trang 56).
Ý nghĩa câu trên được cô đọng lại
trong hình ảnh một người bước đi ba vòng quanh một kẻ nghèo khổ rồi cúi lạy quì
hôn lòng đất.
Nguồn: Phạm Công Thiện, Ý thức
mới trong văn nghệ và triết học (Luận về ý thức mới sau mười năm lang bạt), tái
bản lần thứ tư, NXB An Tiêm, Sài Gòn, 1970. Bản điện tử do talawas thực hiện.