Ly dục là xa, rời lòng ham muốn của mình. Muốn lìa xa thì quý vị phải tìm xem đối tượng của lòng ham muốn là gì. Trong đời sống hàng ngày của con người có năm đối tượng dục lạc khiến quý vị sanh tâm ham muốn. Đó là: ăn, ngủ, sắc dục, danh, lợi. Muốn lìa các thứ dục này quý vị phải tu tập ba hạnh: Ăn, Ngủ, Độc Cư. Quý vị cần phải hiểu rõ cái lợi và cái hại của ăn, ngủ, độc cư như thế nào?
1 - Hạnh Ăn:
Hạnh ăn uống là một phương tiện để tu tập ly dục về ăn uống. Người đời thường nói “ham ăn, hốt uống” là để chỉ những hạng người xấu ham ăn, ham uống. Chúng ta là những tu sĩ tu tập hạnh giải thoát mà chưa giải thoát được cái ăn thì còn giải thoát được cái gì? Vậy, chúng ta phải tập ăn ngày một bữa để nuôi sống thân chúng ta mà thôi. Không được ăn uống lặt vặt, không được ăn uống phi thời, không được chạy theo dục lạc về ăn uống. Phải luôn luôn cố gắng khắc phục trong ăn uống, ăn uống không khắc phục được thì còn khắc phục được cái gì?
Phật không dạy chúng ta tuyệt thực hay tiết thực (ăn quá ít) như ngoại đạo đã dạy, hoặc dạy chúng ta ăn uống phi thời, Đức Phật dạy: “Thừa tự pháp không nên thừa tự thực phẩm”. Xưa kia Ngài dã tu khổ hạnh, tiết thực ăn uống quá ít, thấy cơ thể hao mòn, tinh thần không còn sáng suốt nên Ngài bỏ. Đó là tu sai, không tìm được giải thoát. Cho nên Ngài quyết định ăn ngày một bữa cho đủ sống, để cơ thể khỏe mạnh mà tu tập.
Chỉ ăn ngày một bữa mà Đức Phật vẫn khoẻ mạnh và sống đến 80 tuổi mới chết. Chúng ta bây giờ cũng vậy, ăn mỗi ngày một bữa mà vẫn khỏe mạnh. Trong những ngày lao động quý Phật tử cũng vẫn tham gia lao động mà cơ thể vẫn bình thường. Quý vị cần xét kỹ dục ăn uống, rất là quan trọng trong cuộc sống hàng ngày. Người ngoài đời vì ăn uống mà sinh tâm tham lam nên người ta xâu xé lẫn nhau, giết hại nhau, chà đạp lên nhau không chút lòng xót thương, so sánh với loài vật thì chúng ta cũng không khác. Phải không quý vị?
Vì ăn uống mà người ta nghèo đói, khổ sở, nợ nần; vì ăn uống mà người ta làm đủ điều gian lận, mánh khóe; vì ăn uống mà sản nghiệp tiêu tan; vì ăn uống mà cốt nhục tương tàn; vì ăn uống mà phải dầm sương, dãi nắng, chạy xuôi, chạy ngược, buôn tảo, bán tần. Quý Phật tử có thấy không?
Cái dục về ăn uống đối với đời người nó mang đến sự khổ đau biết là dường nào! Vậy từ đây về sau, quý Phật tử phải dùng nghị lực dũng mãnh chống lại cái dục về ăn uống. Chỉ ăn ngày một bữa mà thôi, ngon dở, nguội lạnh không màng. Chỉ cần giải quyết nghiệp đói của thân là đủ lắm rồi, đủ để thân yên ổn, thanh tịnh, tu tập Thiền Định, giải quyết luân hồi sanh tử. Đừng nghĩ rằng nay đòi ăn thứ này, mai đòi ăn thứ kia. Người tu hành ai cho gì ăn nấy, ngon cũng ăn, dở cũng ăn, không khen, không chê, không ham, không thích, chỉ ăn đủ no lòng mà thôi. Đừng sanh tâm lý luận “Ăn như vậy thiếu chất bổ”. Đó là cái lý luận chạy theo ăn uống.
Quý Phật tử phải hiểu thân là một khối bất tịnh do các duyên hợp lại mà thành, nên không có cái gì trong thân là ta, là của ta, là bản ngã của ta, nó không thường hằng bất biến, mà thường vô thường thay đổi, nên luôn luôn đau khổ, phiền lụy. Vậy mà muôn đời người ta lầm chấp thân này là bản ngã chân thật của mình. Lại có một số người cho rằng trong cái khối này có cái “Bản thể Chân Như Phật Tánh” của mình. Chính vì cái lầm chấp đó nên luôn luôn lo bảo vệ và giữ gìn không cho ai chạm đến. Vì thế mà “duyên sanh” sanh ra muôn ngàn thứ đau khổ, phiền lụy và luôn luôn tranh đấu để bảo vệ nó. Quý Phật tử cũng vậy, cũng lầm chấp như bao nhiêu người khác. Ngày nào các duyên tan rã thì ô hô! Còn lại cái gì là của quý vị đâu nữa? Chết chỉ còn một khối nghiệp lực nhân quả, thiện ác tiếp tục tái sanh mà quý Phật tử đã lầm chấp trong suốt cuộc đời của mình, cho nó là linh hồn thần thức, Phật Tánh, Bản Lai v. v…
Sự tiếp diễn luân hồi này mãi mãi muôn đời muôn kiếp để trả vay vay trả, không bao giờ tàn phai. Quý Phật tử có biết rằng trong cuộc đời này không có một sự việc gì xảy ra ngẫu nhiên cả. Tất cả đều có nguyên nhân, đều có lý do. Đó là nhân quả, quý vị có biết không? Không phải như các nhà Nho ngày xưa và một số người ngày nay bài bác lý nhân quả. Họ cho rằng tất cả đều là ngẫu nhiên. Họ còn cho thí dụ là những chiếc lá vàng ở trên cây kia vô tình (do ngẫu nhiên đưa đẩy), gió thổ bay đi, cái rơi xuống đất, cái xuôi dòng nước, cái rơi xuống bùn. Đời sống nghèo đói, giàu sang của con người cũng như vậy.
Thực ra gió nào có phải là ngẫu nhiên; mà chính là do nhân duyên mặt trời nung đốt không khí. Không khí bị cháy, trống đi một khoảng, các không khí chỗ khác ập vào, lấp vô chỗ trống, tạo thành cơn gió, cơn bão. Sự nghèo đói và giàu sang của chúng ta không thể do ngẫu nhiên mà có được. Hoả hoạn, thuỷ tai, giặc giã cướp mất sự giàu sang, để lại sự nghèo đói cho muôn người. Đây là những cận duyên trong hiện kiếp. Còn những duyên sâu xa trong nhiều kiếp quá khứ nữa. Duyên nhân quả khởi trùng trùng tạo thành khối nghiệp nhân quả đi luân hồi sanh tử bất tận.
Đức Phật trong bài thuyết pháp Mười Hai Nhân Duyên đã chỉ rõ kiếp sống của một con người từ khi sanh ra, lớn lên cho đến khi tan rã. Chỉ là Vô Thường, Khổ, Vô Ngã. Không có gì tồn tại ngoài 12 Nhân Duyên này tiếp diễn nối nhau mãi trong lộ trình nhân quả (Thầy sẽ giảng rõ hơn về 12 Nhân Duyên vào một dịp khác). Thế nên, cuộc đời con người chẳng qua chỉ là một khối nhân duyên Vô Minh nhân quả trả vay, vay trả triền miên, cùng với duyên tan hợp mà thôi.
Cho nên trong gia đình, cha mẹ, vợ chồng, con cái luyến ái, gắn bó hoặc đau khổ, phân ly cũng là do nợ nần muôn đời muôn kiếp trong nghiệp lực nhân quả. Có gì đâu mà thương nhớ, tiếc mong. Bỏ xuống đi, hãy bỏ xuống đi! Đời chẳng có gì đáng cho ta lưu luyến cả.
“Quyết một đời tu tập không lui,
Giữ thân tâm thanh thản an vui.
Nhập Thiền Định xa lìa nhân quả,
Đạo quả viên thành, độ chúng vui”.
Bây giờ quý Phật tử đã thấu rõ được hạnh ăn uống là đối tượng diệt ngã ác pháp. Từ nay về sau, quý vị cố gắng khắc phục nó để mỗi ngày ăn một bữa, đủ sống mà thôi, đừng bắt chước các vị thầy khác ăn uống phi thời mà con đường tu hành không đúng Đạo Phật, nhưng cũng không nên ăn quá ít, hoặc ăn quá nhiều. Ăn ít là tiết thực, điều này tai hại cho sự tu tập vì sức khoẻ yếu kém. Ăn nhiều là dư thừa, sanh dục, ham ngủ, mê muội, cũng hại cho đường tu. Phải sáng suốt, linh động.
Ăn đúng cách là tu. Tu đúng cách là làm chủ cái ăn. Đừng bắt chước những người khác mà ăn ít (vì bản chất người ấy không ăn nhiều được), và cũng đừng ráng ăn nhiều (vì sợ đói). Phải tùy ở thể tạng của mình, và phải làm chủ mình trong khi tu hạnh ăn uống.
2 - Hạnh Ngủ:
Ngủ cũng là một đối tượng để chúng ta tu tập lập hạnh ngủ ly dục, mê muội. Ngủ là một nghiệp dục nặng của thân. Nếu không ngủ sẽ sanh ra bệnh, rồi chết; cũng như ăn vậy. Ngủ là một thói quen của nghiệp lực. Nó sanh ra vô minh, lười biếng, khiến cho thân tâm ta uể oải, bần thần, mỏi mệt, dã dượi. Thiếu ngủ con người thiếu nghị lực, không còn siêng năng, tinh tấn, làm việc, hay tu tập, học hành. Ngủ nhiều người sinh đần độn, ngu si, không thông minh, không bao giờ làm việc lớn, thường sống trong cảnh nghèo đói.
Ngủ là một dục lạc trong năm thứ dục lạc của thế gian, khiến người ta rất thích thú ham mê. Khi không ngủ là họ quá sợ, nhưng khi ngủ nhiều thì lại ám độn, mê muội. Người tu hành cần phải khắc phục nó, chiến đấu trường kỳ với nó. Nó khiến chúng ta không tỉnh táo để phán xét mọi việc đúng sai, thiện ác trên bước đường ly dục, ly bất thiện pháp. Chính nó khiến tâm ta không tỉnh giác, nên tâm thường ở trong tà niệm, sanh ra nhiều duyên làm đau khổ cho mình cho người. Chính nó khiến ta làm càn, làm bậy, thiếu suy tư, thiếu cẩn thận, nên thường mắc phải lỗi lầm. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thanh thản, an lạc và vô sự, vì thế sanh ra loạn tưởng, trạo hối. Chính nó khiến tâm ta mất bình tĩnh, thiếu sáng suốt, vì thế dễ sinh ra hờn giận, đau khổ, nghi nan, phiền toái. Chính nó khiến cho tâm ta mù mờ, không thấu rõ các ác pháp. Chính nó khiến cho tâm ta rơi vào năm loại vô ký:
1. Vô ký hôn trầm.
2. Vô ký thùy miên.
3. Vô ký mộng tưởng.
4. Vô ký hôn tịch.
5. Vô ký ngoan không.
Chính nó lặng đi, khiến ta tọa thiền mất tự chủ, thân nhúc nhích rung động, làm cho thân không bất động, khó nhập chánh định, rơi vào tà định.
Những điều Thầy nêu ở trên đây cho thấy ham ngủ tai hại đến sự tu tập biết là dường nào! Đã biết rõ nó, quý Phật tử phải cố gắng tu tập khắc phục cho được bằng:
1. Đi kinh hành nhiều.
2. Vừa đi kinh hành, vừa hướng dẫn tâm theo bước chân đi.
3. Thường xuyên nhắc tâm tỉnh thức theo hành động của thân mà Đức Phật gọi là Thân Hành Niệm.
4. Thường xuyên hướng tâm như lý tác ý, nhắc tâm chớ ham ngủ.
5. Khi gặp hôn trầm thùy miên nặng thì phải cố gắng bằng mọi cách phá trừ cho được như:
- Lấy kinh sách ra nghiên cứu về một điều gì để động não thì mới phá được ngủ.
- Phải làm một việc gì để động thân.
- Không được ngồi hoặc nằm yên một chỗ.
- Chạy bộ, hoặc đi tắm.
- Phải tập thể dục, tập vài thế dưỡng sinh, hoặc đi một bài quyền (võ thuật).
- Cử tạ, đào đất.
Quý vị nên nhớ kỹ: “Ngủ là một thứ dục lạc rất khó trị. Thế nên luôn luôn lúc nào cũng đề cao cảnh giác, chiến đấu với nó bằng tất cả nghị lực của mình. Nếu quý vị không chiến đấu hết sức, chừng đó nó sẽ thành thói quen lười biếng, quý vị sẽ thất bại ê chề trong cuộc đời tu hành”. Biết bao nhiêu người tu hành đã qua, cũng vì nó mà tu hành chẳng tới đâu. Quý vị nên nhớ ngủ là một thứ dục lạc trong thân nên phải thường xuyên tu tập đi kinh hành, và siêng năng hướng tâm như lý tác ý tỉnh táo mới ly nó được. Phải trường kỳ tranh đấu với nó. Đến khi nhập định xả bỏ thân tâm, nó mới hết được.
Ăn cũng vậy, phải nhập định xả bỏ thân tâm, nó mới hết. Hai thứ dục lạc này là cội gốc, mầm sống của thân; nếu không ngủ, không ăn thì thân phải chết. Còn ba thứ dục lạc kia (sắc dục, danh, lợi) là cội gốc của tâm nên chúng ta tu tập dễ ly hơn. Xa lìa ăn ngủ nghiêm chỉnh, là xa lìa được năm thứ dục lạc. Phải khéo léo, linh động, tuỳ theo sức mình, tu tập dần dần lên. Không được ép chế không ngủ. Ngủ phải đúng giờ khắc, ngủ phải có tập luyện hướng tâm ngủ. Không được muốn ngủ hồi nào là ngủ, muốn tu hồi nào là tu. Ngủ đúng cách là tu tập đúng, ngủ không đúng cách là tu tập sai, cho nên tu tập đúng cách là làm chủ ngủ. Hành động làm chủ ngủ là tu, tức là tỉnh thức, hành động tu là làm chủ ngủ, tức là ly dục, ly ác pháp. Ly dục ly ác pháp tức là tâm thanh tịnh, tâm thanh tịnh tức là tâm định.
3 - Hạnh Độc Cư:
Đây là một hạnh khó tu tập nhất trong ba hạnh ăn, ngủ, độc cư. Nghe nói đến nó thì dễ, mà thực hành sống thì khó khăn vô cùng. Độc cư là một phương tiện tu tập để bảo vệ, phòng hộ, giữ gìn, hộ trì, ngăn ngừa, che chở, bảo vệ sáu căn tức là bảo vệ thân tâm được an ổn, tránh các duyên bên ngoài, khiến cho tâm và cảnh an ổn, yên vui để tu tập dễ dàng hơn. Độc cư còn giúp cho tâm quý vị có dịp tuôn tràn bao nhiêu những ký ức, những kỷ niệm khó quên. Độc cư cũng là dịp giúp cho quý vị nhận ra được dục lạc ham ngủ, ham vui là tai hại trên đường tu tập. Độc cư là đối tượng để quý vị dùng mọi phương tiện tu tập thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực.
Người không sống trong hạnh độc cư được là người hay phân tâm. Người phân tâm là người không có sức tỉnh thức cao, không có sức tập trung mạnh, chỉ lo ức chế tâm bằng tưởng thức. Người thích quay ra ngoài thường rất sợ cô đơn, tâm thường bị phân tán theo các duyên. Tâm chúng ta có, vốn từ nhân quả mà ra, nên thường bị các duyên nhân quả chi phối. Vì thế tâm lúc nào cũng bị phân chia ta nát, không hợp nhất lại được. Chỉ một vài giây hợp lại là bị phân ra liền theo các duyên trong ba thời gian: quá khứ, hiện tại, vị lai. Từ ngày này sang ngày khác, từ năm này sang năm kia, tâm chúng ta luôn luôn bị phân tán liên tục cho đến khi nằm xuống lòng đất. Mục đích của người tu thiền là gom tâm lại, dù là thiền dưới bất cứ hình thức nào, chỉ trừ loại thiền do các nhà học giả sản xuất ra dùng để ức chế tâm. Bởi thế người tu thiền mà không sống trong rừng núi thanh vắng, độc cư thì không làm sao nhập định được. Tại sao vậy? Đó là vì bốn lý do sau đây:
1. Tâm phân tán.
2. Tâm không thành khối.
3. Tâm không nội lực.
4. Tâm không tỉnh thức.
Muốn cho tâm thành khối, có nội lực dũng mãnh, để đóng mở sáu căn và tiến vào giai đoạn II của Thiền định là DIỆT thì phải sống Độc cư một trăm phần trăm.
Muốn tu hạnh sống độc cư phải tu tập ba giai đoạn:
1. Tập sống ít nói chuyện, chuyện gì đáng mới nói.
2. Tập sống riêng, làm việc riêng một mình.
3. Tập sống, không làm việc, ngồi chơi vô sự.
Sau đây là phần thứ nhất của hạnh độc cư là tập sống ít nói chuyện.
Quý vị phải biết lựa chọn cái gì cần thiết mới nói, mới thưa hỏi; không cần thiết thì không được nói, không được thưa hỏi. Duy nhất chỉ thưa hỏi về chuyện tu tập, và phải thưa hỏi riêng, không phải hỏi trước đại chúng vì hỏi như thế quý vị sẽ bị phân tán tâm lo ngại, khó tập trung. Phải hỏi Thiện tri thức để chỉ cho rõ, hành cho đúng. Ngoài ra, những chuyện khác phải cẩn thận khi muốn nói ra. Không được hỏi linh tinh. Có mười hai điều để giữ gìn im lặng (tránh tiếp duyên)
1. Tránh nói chuyện tào lao, nhảm nhí.
2. Tránh kết tình nghĩa, kết bạn bè thân.
3. Tránh nghe chuyện người khác, vì chuyện người khác khiến tâm ta bị động, bất an, thường sanh ra nhiều chuyện và phải nói ra.
4. Tránh gặp nhau, vì gặp nhau dễ sanh nói chuyện. Nếu có gặp nhau thì không nói chuyện là tốt nhất.
5. Không nên đem sự hiểu biết cũng như kinh nghiệm về tu hành của mình đi dạy người khác khi mình tu chưa xong, tức là bị tâm tham danh khoe khoang.
6. Thấy bạn mình tu sai, không được đến dạy bảo, mà phải báo cho thiện tri thức chỉ dạy người ấy, vì đến dạy bảo làm động mình, động người và thành quen thuộc với nhau, nên không giữ hạnh độc cư được…
7. Thấy bạn đồng tu buồn khổ, không được đến an ủi, chia sẻ. Chỉ cần báo thiện tri thức giúp là đủ.
8. Tránh đổ lỗi người khác, vì như thế sẽ tạo duyên bất an trong tâm, gây nên cãi cọ, tranh tụng.
9. Tránh đi đến thất của người khác vì như thế là làm động mình, và làm động tâm người.
10. Làm lao động chung, tránh nói chuyện cười đùa.
11. Khi giúp bạn đồng tu đang bệnh, tránh nói chuyện ngoài vấn đề thăm bệnh. Tốt hơn hết là chỉ hỏi thăm bệnh để dùng phương tiện trị liệu.
12. Khi làm việc chung với người khác nên tuỳ thuận để tránh cãi cọ, đổ thừa.
13. Thường tập sống thơ thẩn một mình để đẩy lui các chướng ngại pháp trong tâm.
14. Luôn giữ tâm thanh thản, an lạc và hướng tâm đến thanh thản, an lạc.
15. Thường giữ tâm vô sự, và hướng tâm đến vô sự.
16. Thường tránh xa các duyên để giữ tâm không bị phân tán.
17. Không nên đem tâm sự của mình nói cùng ai, ngoài người Thiện hữu tri thức của mình.
18. Thấy việc làm nặng nhọc, cùng nhau chia sẻ làm, nhưng không được nói chuyện.
19. Thấy ai làm chưa xong, cùng làm phụ, nhưng không nói chuyện.
20. Thường sống im lặng trong và ngoài tâm, và hướng tâm đến sự im lặng.
Quý Phật tử phải ghi nhớ 20 điều kể trên để giữ tâm im lặng. Tốt nhất là tránh xa, tránh xảy ra các duyên, tránh tạo các duyên mới để tâm không bị phân tán. Càng tiếp duyên thì càng tạo hoàn cảnh bất an, tâm bị phân chia, khó tu thành khối nội lực, và tu tập sẽ dẫm chân tại chỗ, không tiến bộ được. Cố tránh duyên thì hoàn cảnh mới thuận tiện, yên vui tu hành.
Quý vị nên nhớ độc cư ở giai đoạn I là Tịnh Khẩu. Tịnh khẩu là nói lời thanh tịnh, không nói lời bất tịnh. Tịnh khẩu là nói lời thiện, tức là nói lời làm vui lòng mình và vui lòng người. Nói lời bất tịnh là nói lời ác, làm đau khổ mình và đau khổ người. Tịnh khẩu là nói lời thiện, chứ không có nghĩa là á khẩu, vì á khẩu là câm, không nói được. Thế nên, quý vị phải cẩn thận, kẻo rơi vào tu hình thức, ít nói mà thành nói rất nhiều. Chuyện gì cũng nói, khi tâm bung ra, phân tán nói thôi không hết, như nước vỡ bờ.
Hạnh độc cư khó lắm. Nó là bí quyết thành công của thiền định. Nó có ba nhiệm vụ:
1. Bảo vệ tâm tránh các duyên.
2. Gom tâm hợp nhất thành khối.
3. Làm cho tâm tuôn tràn ra hết.
Sáu năm trời tu khổ hạnh của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là sáu năm tu ly dục. Nhờ đó Đức Phật tránh được các duyên, thu nhiếp thân tâm thành khối nội lực. Khi tâm đã thành khối có nội lực, Đức Phật đã xả bỏ khổ hạnh tối đa, vì khổ hạnh chỉ làm hại cho sức khoẻ, và trở lại đời sống bình thường của một tu sĩ đi khất thực ăn ngày một bữa và chỉ khác năm anh em ông Kiều Trần Như, là Ngài đã nhận thêm sữa do cô bé chăn dê cúng dường. Trong 49 ngày dưới cội bồ đề, Đức Phật dùng nội lực nơi tâm đã có, đem ra chiến đấu với nội tâm mình để ly dục ly bất thiện pháp. Lúc bấy giờ Đức Phật gọi là hàng phục Ma Vương, kế đó Đức Phật diệt tầm tứ, đóng mở sáu căn, nhập Nhị Thiền, sau khi nhập Nhị Thiền Ngài loại trừ tưởng thức nhập Tam Thiền, sau khi nhập Tam Thiền xong Ngài dừng các hành trong thân, nhập Tứ Thiền, nhập Tứ Thiền xong Ngài dẫn tâm đến Tam Minh, thành tựu giải thoát.
Tóm lại, ly dục là lìa xa ý muốn của mình. Nghe nói ly dục thì rất dễ dàng, mà lìa xa ý muốn của mình thì khó vô cùng. Bậc Thánh như Đức Khổng Phu Tử đến 70 tuổi mới dám tuyên bố: “Ta đến tuổi này mới làm theo ý muốn của mọi người”. Nghĩa là đến 70 tuổi, Ông mới ly dục và ác pháp nơi tâm Ông. Theo Thầy nghĩ, muốn ly dục lìa ác pháp thì ít ra phải ba năm rèn luyện. Còn tu lơ mơ thì 30 năm cũng chưa chắc đã làm được. Cái ý muốn của mình là cái gì? Là Bản Ngã Ác Pháp. Bản ngã ác pháp không ly thì làm sao có Niết bàn? Vô Ngã Ác Pháp là Niết Bàn, chứ không phải vô ngã là Niết bàn, vì vô ngã ác lẫn thiện là cây đá.
Đi tu cũng như đi học. Người ngoài đời, nếu học không đến nơi đến chốn thì chẳng có ích lợi gì cho mình mà còn là gánh nặng cho xã hội. Người tu cũng vậy, tu không đến nơi, đến chốn sẽ làm bại hoại tôn giáo, như hiện giờ chúng ta thấy phần đông tu sĩ Phật giáo tu không đến nơi đến chốn làm hư hoại Phật giáo. Người tu đến nơi đến chốn làm sáng tỏ Phật Pháp qua gương hạnh sống của mình, khiến cho mọi người quy ngưỡng và tôn kính Phật Pháp. Chúng ta quyết chọn con đường tu, thì phải tu cho đến nơi đến chốn. Người tu lừng chừng không có ích cho mình, cho người mà còn có hại cho tôn giáo. Đức Phật dạy: “Tu là phải lìa xa ý muốn của mình”. Tu là quyết tâm buông bỏ, bỏ để được giải thoát, thảnh thơi, an vui một đời. Bỏ cái gì? Bỏ lòng ham muốn (ái dục).
Tóm lại, trong giai đoạn I của Thiền Định là giai đoạn Ly, dùng ba hạnh Ăn, Ngủ, Độc Cư làm đối tượng để tu tập, khắc phục cho được tâm ly dục. Quý vị nên nhớ, chúng ta là tu sĩ của đạo tu hạnh giải thoát thì thời gian nào, ngày nào, tháng nào, năm nào cũng là mùa Xuân, mùa Xuân vĩnh cửu trong tâm hồn của chúng ta, mùa Xuân không có nhân quả, mùa Xuân không có diễn biến luân hồi. Vì thế chúng ta không có chúc thọ, không có mừng tuổi mừng Xuân thế gian. Hãy sống bình thường, hãy giữ tâm bình thường trước mọi diễn biến của không gian và thời gian bằng một tâm hồn thanh thản, an lạc và vô sự thì đó là mùa Xuân vĩnh cửu.
Trích Thiền căn bản I
Trưởng Lão Thích Thông Lạc