Lý thuyết phân tích tâm lý khẳng định rằng sự lo lắng và sợ chết bản thân mình là một hiện tượng bình thường. Tuy nhiên, điều đó không phải lúc nào cũng vậy. Hơn nữa, khi con người quá lo lắng về cái chết thì có cảm xúc khác nhau về điều đó. Một số người tìm thấy ý nghĩa, mục đích cuộc sống và biết rằng họ sẽ chết theo một sơ đồ sinh tồn của bản thân. Những người cuồng tín tôn giáo chết vì một mục đích nào đó (ví dụ, những kẻ khủng bố - tự sát) đưa họ đến việc “giải quyết” vấn đề đó một cách tuyệt đối.
Những người theo chủ nghĩa vô thần tin rằng sau khi chết thì không có sự sống nữa, trái lại đôi khi họ sợ hãi trước viễn cảnh kết thúc hoàn toàn sự tồn tại của bản thân. Tuy nhiên, họ có thể xúc động theo một cách khác: những người tin rằng không có cuộc sống dưới âm ti thì họ thường dàn hoà với cái chết, tiếp nhận nó như là một trạng thái tự nhiên và thậm chí là trạng thái bình yên. Họ dựa vào cơ sở rằng không có tồn tại thì cũng không thể có stress và đau đớn, còn “lo lắng” về cái chết là không có nghĩa.
Như các công trình nghiên cứu chỉ ra rằng những khái niệm của phần lớn con người thể hiện ở đâu đó giữa hai quan điểm hoàn toàn đối lập nhau. Trong trường hợp này sự sợ hãi hoặc quá lo lắng về cái chết bản thân là do cái chết có ý nghĩa cá nhân hay văn hoá như thế nào quyết định. Các công trình nghiên cứu chứng minh rằng những người cao tuổi thường ít lo lắng hơn về cái chết bản thân so với người trẻ tuổi; ngoài ra, con người có mục tiêu nào đó trong cuộc sống thì ít sợ chết hơn. Mặc dù một số người cao tuổi thường nghĩ về cái chết song họ cảm thấy ngạc nhiên là họ bình tĩnh (Kastenbaum, 1998). Sự sùng đạo của con người có ý nghĩa to lớn: các cuộc phỏng vấn cho thấy rằng con người có niềm tin sâu sắc vào Chúa Trời và cuộc sống dưới âm cung thì trước cái chết rất ít khi họ bị trầm uất và ít lo lắng hơn (Alvarado Templer, Bresler & Thomas - Dobson, 1995). Tuy vậy, những cảm xúc cá nhân có ý nghĩa quyết định: bản thân tích cực tham gia vào đời sống tôn giáo và sự bắt buộc tín mộ không làm giảm sự lo lắng cái chết bản thân.
Khi người ta hỏi những người trẻ tuổi rằng họ làm việc gì nếu như họ chỉ sống được có nửa năm, có thể nghe được các câu trả lời sau đây. Họ thường nghĩ rằng họ có thể đi du lịch và gắng làm một điều gì đó mà luôn luôn mong muốn nhưng không có khả năng đo. Người cao tuổi có những ưu tiên của mình. Đôi khi họ bàn luận về thế giới quan, về trực quan hoặc các bài học khác đòi hỏi phải tập trung tư tưởng. Song họ thường nhận xét rằng họ muốn dành thời gian cho gia đình mình hoặc những người thân với họ (Kalish, 1987; Kalis Reynolds, 1981). Ngoài ra, trong quá trình phỏng vấn có nhiều người cao tuổi tham gia thì chỉ có 10% người được phỏng vấn đã trả lời vấn đề “Bạn có sợ chết?” (Jeffers, Verwoerdt, 1970). Trong khi đó có nhiều người tham gia nghiên cứu đã nói rằng họ sợ cái chết kéo dài và đau khổ.
Mặc dù người cao tuổi thường ít lo lắng hơn về cái chết, song không phải tất cả trong số đó lại có cảm giác tương tự. Giữa các cá nhân với nhau có sự khác nhau về lo lắng cái chết (Stillion, 1985). Vậy thì nẩy sinh vấn đề có nên nêu ra các tiêu chí phân chia những người lo lắng nhiều hay ít về cái chết bản thân? Các số liệu thí điểm không cho những dẫn giải giống nhau. Căn cứ theo một vài tài liệu thì những người ít lo lắng nhất về cái chết là những người thích nghi tốt về mặt tâm lý và, theo Ericson, đã đạt tới các giai đoạn toàn vẹn cá nhân. Theo các số liệu khác, những người cao tuổi có sức khoẻ về thể chất và trí tuệ kiểm soát được cuộc sống của mình là những người lo lắng nhất. Cũng có ý kiến cho rằng sự lo lắng về cái chết là không cố định. Ví dụ, thường con người bắt đầu rất lo lắng về cái chết bản thân khi họ dự đoán bệnh tật có thể dẫn đến tử vong. Tuy nhiên trong vài tuần lễ hoặc vài tháng sau khi biết tin đó thì điều lo lắng của họ dần dần giảm đi (Belsky, 1984).
Chờ đón cái chết bản thân
Con người già đi hoặc đau ốm và họ bắt đầu nhận thức được rằng cái chết không còn là một biến cố xa xôi gì. Những người trẻ tuổi có thể cho phép mình từ bỏ ý nghĩ về cái chết, song trong thời gian đau ốm hoặc tuổi già thì không nên từ bỏ những suy nghĩ đó. Vậy thì bằng cách nào con người ghi nhận giai đoạn phát triển cá nhân cuối cùng đó? Nhiều người trải qua một số giai đoạn thích nghi với cái chết và do vậy họ tiếp nhận cái chết không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy ở phần tiếp theo, điều đó không đúng đối với mọi người.
Chết là giai đoạn phát triển cuối cùng
Đối với những người không lo đến cái chết nhanh chóng trong tương lai, họ có thể giành nhiều thời gian để suy nghĩ về điều không tránh khỏi là cuộc sống phải dừng lại. Họ thường sử dụng những năm cuối cùng để nhìn về quá khứ, suy nghĩ về những thời điểm thú vị và hay đau ốm của quá khứ. Theo ý kiến Bat-lơ (Butler, 1968; 1980-1981) cách nhìn tổng quan con đường sống của mình - đó là giai đoạn phát triển quan trọng của cá tính kéo dài trong suốt toàn bộ cuộc đời. Hơn lúc nào hết các lý do thôi thúc để tự nhận thức bản thân ở tuổi già là mạnh mẽ. Quá trình tự nhận thức bản thân thường thúc đẩy sự phát triển cá tính. Con người giải quyết các cuộc xung đột đã lâu ngày, tìm thấy ý nghĩa mới trong cuộc sống và thậm chí còn khám phá ra cái gì đó trước đây chưa biết trong bản thân mình. Chỉ có nhận thức được cái chết đến gần là hiện thực mới giúp ta buộc phải đề ra các quyết định có tính then chốt về các thời điểm quan trọng nhất của cuộc sống và hiểu được là chúng ta là ai trên thực tế. Cái chết tạo ra một tương lai cần biết (Kubler - Ross, 1975). Như vậy thật là ngược đời song cái chết có thể là sự thúc đẩy “quá trình quay ngược lại với cuộc sống” (Imara, 1975).
Cũng như các thời kỳ trước đây của cuộc sống, việc làm rõ ý tưởng và mục đích cuộc sống đòi hỏi phải có sự xây dựng lại các niềm tin triết học, tinh thần và thực tiễn (Sherman , 1987). Năm 1974 khi nhà văn Ernet Becơ (Ernest Becker) phải vào viện do mắc bệnh ung thư ở giai đoạn cuối cùng, người ta đề nghị ông cho biết ông cảm thấy thế nào. Trong suốt cuộc đời Becơ viết rất nhiều về sự gặp gỡ với cái chết và vì vậy ông đã sẵn sàng cho cái điều mà ông phải thử thách. Ông đã trải qua một số thời kỳ cận kề với cái chết và trong thời gian phỏng vấn rõ ràng là ông đã đạt tới giai đoạn cuối cùng của tiên nghiệm. Quyết định riêng của ông có lẽ là quyết định tinh thần: “Chết đi một cách dễ dàng hơn khi người ta biết được, ngoài cái sẽ đến với con người, còn có những sức mạnh sáng tạo gây chấn động mãnh liệt của vũ trụ, sức mạnh đó sử dụng chúng ta cho các mục đích nào đó mà chúng ta chưa biết” (trích dẫn theo Keen, 1974). Những người khác có thể đi tới bằng lòng với cái chết hoàn toàn khác, còn đối với các khái niệm về hiện tượng này có sự khác biệt cơ bản ở các nền văn hoá và tôn giáo khác nhau. Trong bất luận trường hợp nào, sự thừa nhận của E.Becơ - đó là một bằng chứng thuyết phục để đem đến cho con người khả năng tìm thấy cách giải quyết riêng vấn đề và đón chờ cái chết một cách khiêm nhường và xứng đáng.
Các giai đoạn thích nghi
Elidabet Cubler-Ross (1969) là một trong những người nữ đầu tiên quan tâm vấn đề nghiên cứu cái chết và sự qua đời. Bà tập trung chủ yếu vào những tình huống ngắn ngủi trong đó triển vọng cái chết đối với con người trở nên rất hiện thực, ví dụ như khi phát hiện bệnh tật không thể chữa khỏi ở con người. Do vậy, khi trò chuyện với những người đó E.Cubler - Ross đã chia ra 5 giai đoạn thích nghi với ý nghĩa về cái chết: Phủ nhận, giận dữ, mặc cả, trầm uất và tiếp nhận. Dưới đây là mô tả tóm tắt các giai đoạn đó.
• Trong giai đoạn phủ nhận, con người bác bỏ khả năng chết và đi tìm những ý kiến và những triển vọng thuận lợi nhất.
• Khi con người nhận thức được rằng họ trên thực tế sẽ chết, sự kích thích, phẫn nộ và lòng đố kỵ bao bọc lấy họ. Đó là giai đoạn giận dữ. Con người cảm thấy mình bị lừa dối bởi lẽ các kế hoạch và khát vọng của họ không khi nào được thực hiện.
• Ở giai đoạn mặc cả, con người có thể tranh thủ thời gian, đưa ra những lời hứa hẹn và cầu nguyện Chúa Trời của mình, trò chuyện với các bác sĩ, y tá hoặc với những người khác lấy cớ trì hoãn bản án, giải thoát khỏi đau đớn và khổ ải.
• Nếu mặc cả không đem lại kết quả, còn thời gian trôi đi thì sự bất lực và vô vọng bao quanh họ. Đến lúc này con người đang trong giai đoạn trầm uất và khóc than không những về những tổn thất thực sự mà không lâu nữa phải chia ly với gia đình mình và bạn bè.
• Trong giai đoạn tiếp nhận thực tế cận kề cái chết và bình tĩnh chờ đợi nó.
Các giai đoạn thích nghi mà E.Kubler - Ross mô tả là phản ứng bình thường của con người về cái chết không tránh khỏi và giúp cho hiểu rằng con người đang hấp hối cảm nhận điều gì. Tuy nhiên con người không phải là vạn năng. Không phải tất cả mọi người đều trải qua một trong những giai đoạn nói trên và chỉ có một số người trải qua năm giai đoạn đó theo trình tự như đã mô tả. Có nhiều yếu tố tác động đến sự phản ứng của con người đó là: bản sắc văn hoá, tính cách cá nhân, tôn giáo, triết lý cá nhân, độ dài và tính chất của bệnh tật. Một số người ở trong giai đoạn giận dữ hoặc trầm cảm cho đến khi chết, số người khác chờ chết như là sự giải thoát khỏi nỗi đau đớn. Mỗi con người chờ đón cái chết theo cách của mình, vì vậy trong những trường hợp đó họ không phải ép buộc vào các giai đoạn thích nghi nhất định.
Trái lại, như Robe Cafenbaum (Robert Kastenbaum, 1998, 2000) khẳng định cần giúp cho con người đi theo các con đường riêng của họ tới cái chết. Khi họ cần tới điều đó họ sẽ nói về cảm xúc, nỗi băn khoăn và kinh nghiệm của mình, nếu họ có các câu hỏi họ cần nhận được các câu trả lời, cần điều chỉnh cuộc sống riêng, gặp gỡ người thân và bạn bè, xin lỗi và bản thân xin tha thứ về những sự bất hòa và những lầm lỗi không đáng kể. Tất cả những hành động đó, R. Catstenbaum khẳng định, rất quan trọng đối với con người hơn là trải qua các giai đoạn cảm xúc trong một trật tự nhất định.
Theo Tamlyhoc.net