Bước vào giai đoạn mở cửa, nhìn ra thế giới ta thấy rồng lớn, rồng nhỏ bay tới tấp, chúng ta cũng ao ước đất nước sẽ hoá rồng và bạn bè trên thế giới cũng chúc chúng ta mau chóng thành rồng và sớm cất cánh. Đó là nguyện vọng chính đáng và những lời cầu chúc tốt lành.
Nhưng làm thế nào để thành công thì vấn đề quả là nan giải. Chỉ có điều đáng kinh ngạc là giáo sư Lé on Vandermeersch và một số vị học giả uy tín đầy mình tự nhiên lại phát kiến ra rằng: đại long Nhật Bản và các tiểu long Singapore, HongKong, Đài loan, Hàn Quốc cất cánh chính là nhờ văn hoá Khổng giáo. Lại đáng kinh ngạc hơn nữa khi một loạt các vị học giả ở nước ta chưa kịp hiểu nếp tẻ ra sao cũng tri hô lên rằng văn hoá Khổng giáo thật là tuyệt diệu và đoạn tuyệt với văn hoá Khổng giáo thật là dại dột, nhất là trong gần một thế kỷ qua bỏ dùng kiểu chữ vuông càng là một tai hoạ (87) cho dân tộc và đất nước.
Khổng Tử đã từng dạy “Ôn cố tri tân”. Và chính các bậc hậu nho cũng luôn nhắc nhở điều này. Thế nhưng không hiểu các vị học giả hiện nay lại hình như quên mất cái “cổ” (cái gốc cũ) của đạo Nho, làm như đây là một học thuyết vạn năng có thể biến lạc hậu thành tiên tiến, biến trì trệ thành phát triển.
Cái lõi của văn hoá Khổng giáo
Người ta thường ca ngợi Khổng giáo về mặt thiết lập mối quan hệ giữa con người với con người trên cơ sở thương yêu nhau nhưng lại quên mất rằng chữ “nhân” mà Khổng Tử đặt ra là của riêng giới thống trị mà ngài đã gọi là quân tử; và ngài cho rằng những kẻ bị trị tiểu nhân là những kẻ không biết gì là nhân. Ngay chữ “nghĩa” của ngài cũng là cái gì hợp với quân tử, còn kẻ tiểu nhân không có phần nào trong đó. Đối với ngài, lũ tiểu nhân và lũ đàn bà là khó dạy. Ngài cho rằng hai loại này không thể dạy được mà chỉ có thể sai khiến chúng mà thôi.
Xét cho cùng chỉ có chữ “lễ” thì ngài tỏ ra rộng rãi và bọn tiểu nhân thực sự được hưởng những quy định này. Và các vua chúa trước kia ở phương Đông đã tận dụng chữ lễ này để đảm bảo tôn ti trật tự và củng cố vương quyền.
Thực chất, “lễ” của Khổng Tử là một loại “pháp” và “pháp” này lại quy định ngặt nghèo đến từng chi tiết trong sinh hoạt: ăn mặc, đi đứng, nói năng…Như thế là lễ bao gồm cả đạo đức và luật pháp (ước chi dĩ lễ). Cũng đừng nhầm với một chữ “lễ” khác chỉ là những quy ước dành riêng cho các bậc sĩ đại phu “lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu”.
Thực ra, những câu nói cửa miệng của ngài luôn luôn biến đổi nghĩa nhưng bọn thống trị đương thời cũng như ở các đời sau chỉ sử dụng nghĩa nào có lợi cho họ mà thôi…
Người ta có thể tìm thấy khía cạnh này khá ôn hoà, êm ái của chữ “lễ” nhưng thực chất nó là một thứ trói buộc bọn tiểu nhân bị trị. Nhiều người thời nay bàn về chữ lễ hình như chỉ giới hạn ở mức độ giao tiếp ứng xử, nghĩa là chỉ có nên hay không nên, chứ không phải là phải hay bắt buộc phải.
Để tang không đúng phép sẽ bị buộc tội hẳn hoi chứ không phải chỉ bị chê cười. Thử giở một số điều trong Minh Mệnh chính yếu là khắc rõ. Đàn bà lăng mạ chồng là bị tội, chồng lăng mạ vợ không sao.
Cũng phải công bằng mà xét thì Khổng Tử có cái hay là ông đã quy định trách nhiệm cho kẻ quân tử, chỉ những người chịu trách nhiệm cai trị, quản lý xã hội Sự quy định trạc nhiệm cai trị, quản lý xã hội. Sự quy định trách nhiệm này là đúng đắn và có ý nghĩa vĩnh hằng. Chỉ có điều, thực tế lịch sử đã xác nhận là chẳng ai làm được theo đúng lời dạy của ngài cả. Các vị hoàng đế Trung Quốc đối với nhân dân Trung Quốc ra sao thì đã rõ rồi. Các vị thứ dân Trung Quốc ra sao thì đã rõ rồi. Các vị thứ dân Trung Quốc chấp nhận chữ lễ như thế nào thì càng rõ. Chữ nhân ở Trung Hoa xưa cũng như chữ bác ái của châu Âu hiện nay mãi mãi là một thứ viễn tưởng không bao giờ với tới được.
Cả một xã hội Trung Hoa lấy trung hiếu làm giềng mối, chẳng lẽ một Hoa lục 2.500 năm thấm nhuần văn hoá Khổng giáo mà đành trì trệ ngưng đọng chịu nhường bước cho Hong Kong và Đài Loan sao? Và bản thân Hoa đảo Đài Loan trước khi thành con rồng cũng đã từng có hàng già nửa thế kỷ ở Hoa lục tụng “Tử viết” rồi.
Còn khi nhìn về đại thể thì chữ nhân chưa bao giờ được thực thi ở Trung Quốc. Người ta chôn sống nhau một lúc hàng chục vạn người, đốt phá cung A Phòng hằng ba tháng ròng. Cho đến nay chưa ai bác bỏ được lời luận tội của văn hào Lỗ Tấn coi đạo lý Khổng Mạnh là thứ đạo lý ăn thịt người. Tất nhiên cũng có thời kỳ người ta sống hoà ái với nhau nhưng hình như đó chỉ là đợt nghỉ sức để chuẩn bị cho cuộc chém giết dữ dội hơn.
Việt Nam ta vào thời Lê, Nguyễn cứ suy mạt dần đi như Trung Quốc cũng là chuyện mọi người đã rõ, khỏi bàn nhiều. Triều Tiên cũng tương tự. Chỉ có Nhật Bản là trường hợp riêng. Xin đừng quên Nhật Bản chủ yếu tiếp thu Vương Dương Minh chứ không phải Trình Chu . Chữ nhân của Khổng Tử hầu như hoàn toàn xa lạ với quý tộc và quân phiệt Nhật Bản. Nhật Bản trở thành cường thịnh, thành cường quốc rồi thành quân phiệt phát- xít, chẳng thấy ai quy công cho Khổng giáo; thế mà khi họ tạo nên những chuyện thần kỳ về kinh tế lại qui công cho Khổng giáo. E cũng có một sự thiếu nhất quán nào đây trong tư duy nghiên cứu.
Nếu nói đến sự đóng góp của văn hoá Khổng giáo thì phải nói rằng nó rất thích hợp với các xã hội kinh tế tiểu nông. Khi kinh tế khép kín và tự cấp tự túc, ăn bữa nay lo bữa mai, vắt mũi không đủ đút miệng, đời sống phụ thuộc vào thiên nhiên thì cứ việc an phận thủ thường, thuận theo “mệnh trời” mà sống. Xã hội lép dài trì trệ và bất biến như thế bao nhiêu ngàn năm thì tất nhiên văn hoá Khổng giáo tồn tại bấy nhiêu ngàn năm, có gì đáng ngạc nhiên. Còn thần bí hay không, không phải là vấn đề quan trọng. Do điều kiện sản xuất lạc hậu của châu Á, người nông dân chỉ có thể mê tín chứ ít có tín ngưỡng, họ không quan tâm đến giáo lý và tín điều.
Việt Nam nói riêng và các nước châu Á nói chung du nhập đủ thứ đạo, nhưng người ta cũng chẳng sống chết với bất cứ cái nào; vì đối với họ, cái ăn là phải lo trước hết (có thực mới vực được đạo; dĩ thực vi tiên).
Không phải như giáo sư Phan Ngọc nói: nước Khổng giáo thì có khả năng dung hợp tất cả mọi tôn giáo. Thực ra đó là khả năng dung hợp của tất cả các nước nông nghiệp lạc hậu. Bên cạnh cái ăn cần hơn tất cả các thứ đạo thì đạo nào hứa hão nhiều hơn thì họ tin theo nhiều hơn. Họ có bị ru ngủ nhưng khả năng bừng tỉnh vẫn là khả năng thương trực. Nói cho chính xác thì chính những giai cấp thống trị ở những nước theo Khổng giáo lại có óc kỳ thị tôn giáo rất nặng nề. Cứ xem việc các nho sĩ Trung Hoa và Việt Nam đả kích Phật giáo thì đủ rõ. Chuyện vua Nhật Bản và vua Việt Nam đàn áp Thiên chúa giáo ở thế kỷ trước càng là những minh chứng không thể bác bỏ.
Khi các tầng lớp thống trị còn ở trạng thái tham lam và ngu tối thì dù ở phương Đông hay phương Tây cũng đều rất giống nhau về mặt kỹ thị: tôn giáo, màu da, sắc tộc..
Khả năng dung hoá của Việt Nam
Phải nói ngay về sự nhầm lẫn của nhiều học giả cứ thích trích dẫn và gán ghép. Họ trích Luận ngữ, Mạnh Tử, đủ thứ, và theo họ thì nhờ có cái đó mà Việt Nam mới biết sống, biết lễ nghĩa và phát triển. Nhưng chẳng lẽ khi người ta du nhập chữ nhân của Khổng Tử, nhân dân ta mới biết thương yêu nhau chăng? Chẳng lẽ khi tụng “phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ bất năng khuất” thì chúng ta mới biết đến cãi lẽ sống ấy. Họ quên rằng cả nghìn năm Bắc thuộc và những nghìn năm trước Bắc thuộc, Việt Nam đâu chịu khuất phục kẻ thù hai chân và bốn chân. Các vị hủ nho và vua quan thống trị tụng đọc hàng ngày đủ thứ kinh sách tín điều nhưng có bao giờ làm theo. Lại những câu đẹp đẽ của đức Thánh Khổng như “Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân” đã treo đó 2.500 năm nhưng dân tộc ngài đâu có thực hiện. Còn bọn vua chúa thống trị Trung Hoa lại càng không để ý tới những giáo điều kiểu đó. Vì thế mới có chuyện “liền năm chính phạt, hằng đánh hằng thua”.
Ngay sử gia Ngô Sĩ Liên cũng nhầm lẫn khi ca tụng Tích Quang, Nhâm Diên, Sĩ Nhiếp và lại công nhận nhờ bọn ngoại lai đó đến, dân ta mới biết Thi, Thư, Lễ, Nhạc…Ngô Sĩ Liên quên mất rằng chúng ta đã từng có pháp độ kỷ cương riêng của mình và chỉ mất dần đi ở cuối đời Trần và mất thật sự ở thời Lê Thánh Tông, rồi mất hẳn ở thời các vua nhà Nguyễn. Đáng tiếc, một số nhà nghiên cứu ở Trung Quốc hiện nay cũng cứ vin vào sự nhầm lẫn của Ngô Sĩ Liên mà xuyên tạc lịch sử (88) (về vấn đề này xin trao đổi vào dịp khác). May mắn chúng ta vẫn có được một nền văn hoá dân gian xuyên suốt lịch sử và chảy ngầm trong các làng xã Việt Nam . Nó luôn giữ được sự trong trẻo của bản sắc dân tộc và chống lại được sự ô nhiễm ngoại nhập.
Tất nhiên không phải mọi thứ thuộc về văn hoá làng xã đều tốt đẹp cả nhưng ở đó nó vẫn bảo tồn được những cái gì thực sự là Việt Nam . Trong suốt trường kỳ lịch sử, nó vẫn là những pháo đài chống trả có hiệu quả mọi cuộc xâm lăng văn hoá của nước ngoài. Tất nhiên không tránh khỏi trì trệ, bảo thủ, lạc hậu. Và khi nói người Việt Nam tiếp thu Khổng giáo một cách dễ dàng thì phải hiểu đó là người Việt Nam ở cấp triều đình, điển hình là các vua Lê, vua Nguyễn. Còn người Việt ở cấp làng xã thì có khả năng tiếp nhận tất cả Phật, Lão, Khổng, Giê-su và có khả năng đồng hoá phù hợp với thể trạng của mình.
Chỉ một bài ca dao ngắn sau đây đủ biết khả năng đó là mạnh mẽ biết chừng nào:
Mình về em chẳng cho về
Em nắm vạt áo em đề câu thơ
Câu thơ ba chữ rành rành
Chữ trung chữ hiếu chữ tình là ba
Chữ trung thì để phần cha
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ tình.
Dứt khoát đây không phải là sáng tác của nho sĩ bác học hoặc nho sĩ bình dân.
Còn đến như: “Yêu nhau chẳng quản chiếu giường, một tàu lá chuối che sương cũng tình” thì quả là vượt lên trên mọi thứ nghi lễ, kỷ cương nghiêm ngặt nhất của Khổng giáo Bắc phương.
Ngược dòng lịch sử một chút, ta thấy ở đầu thiên niên kỷ thứ hai, pháp độ kỷ cương và những người thi hành pháp độ ở triểu Lý còn đằm thắm nhân ái xiết bao. Cứ nghe lời phán của vua Lý Thánh Tông thì đủ thấy là Khổng giáo chưa thấm vào Việt Nam, hoặc nói khác đi, Khổng giáo chưa hề khống chế được tinh thần Đại Việt và đủ hiểu tình thương của các vua Lý đối với dân thường, kể cả kẻ phạm tội:
“Trẫm ở trong cung, sưởi than xương thú, mặc áo lông chồn, còn rét thế này; nghĩ đến người bị tù giam trong ngục, khổ sở về gông cùm, chưa rõ ngay gian, ăn không no bụng, mặc không kín thân, khốn khổ vì gió rét, hoặc có kẻ chết không đáng tội, trẫm rất thương xót. Vậy lệnh cho Hữu ty phát chăn chiếu và cấp cho cơm ăn ngày hai bữa”. (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1, tr.271)
Lòng nhân ái và khoan dung của Việt Nam là như thế! Tinh thần đó càng sáng rõ ở thời Trần. Không phải ngẫu nhiên mà Trần Dụ Tông có thể tự hào khi so sánh cái nhân ái của Trần Thái Tông với cái tàn bạo của Đường Thái Tông:
Đường, Việt hai vua hiệu Thái tông
Đường xưng Trinh Quán; Việt: Nguyên Phong
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.
Xét như thế thì cái nhân ái theo tinh thần Đại Việt này là sản phẩm riêng của dòng dõi Lạc Việt phương Nam . Vì nếu không có cái nhân ái và bất khuất Việt Nam thì làm sao có được khởi nghĩa Hai Bà Trưng và khởi nghĩa Bà Triệu. Ít nhất cũng phải công nhận điều này: vào đầu thiên niên kỷ thứ 1, Trung Quốc phương Bắc theo văn hoá Khổng giáo thì phụ nữ là thấp hèn, trong khi đó Lạc Việt phương Nam theo văn hoá đạo Mẫu thì phụ nữ là cao quý.
Khổng giáo mà thâm nhập vào ta được phải nói đó là công lao của các vua đầu triều Lê, mà một trong những người kiên quyết nhất là Lê Thánh Tông. Ông vua vốn được lịch sử ca tụng là minh quân này đã thẳng tay giết thầy học của mình là Thái tử thiếu bảo Hình bộ thượng thư kiêm Đô ngự trử Trần Phong. Ông thầy này đã can vua không nên rập khuôn theo quan hệiu nhà Minh. Nhờ có lời lên án của Lê Thánh Tông mà ta hiểu được tinh thần của Trần Phong trong việc bảo vệ kỷ cương, điển chế Đại Việt:
“Nay phong làm bề tôi của ta lại thường mang tấm lòng bất trung, bảo rằng ta đặt quan hiệu theo nhà Minh là làm trái thông chết của quốc triề. Cái bụng trái đạo làm tôi của hắn đã rõ lắm rồi. Phong đã bội phản, ai buộc được tay ta mà không thể giết nó” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, tr. 469)
Sau Lê Thánh Tông thì công lao bảo vệ văn hoá Khổng giáo phải kể đến các chúa Trịnh, điển hình là Trịnh Tạc. Chúa đã ban 47 điều giáo hoá để tiêu diệt bằng được văn học dân gian phi Khổng giáo:
Ngũ kinh chư sử xưa nay
Với chư tử tập này rày văn chương
Dạy bàn có ích đạo thường
Mới nên san bản bốn phương thông hành.
Kỳ như Thích, Đạo phi kinh
Lời tà mới lạ tập tành chuyện ngoa
Cùng là chuyện cũ nôm na
Hết thơ tập ấy lại ca khúc này
Tiếng dâm dễ khiến người say
Cho in cho bán hại ngay thói thuần.
Công lao lớn nhất trong việc khẳng định vị trí độc tôn của Khổng giáo là thuộc về các vua triều Nguyễn. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử Việt Nam kỷ cương luật pháp được thống nhất và thi hành một cách chặt chẽ, triệt để như thế. Có thể coi đó là một xã hội Nho giáo điển hình ở phương Đông. Các thiết chế chính trị, kinh tế, giáo dục, luật pháp đều rập theo khuôn mẫu Nho giáo Trung Quốc: bên kia thi cử thế nào, bên này thi cử thế nấy; bên kia Đại Thanh nhất thống chí, Bên này Đại Nam nhất thống chí. Bên kia Cương mục, bên này cũng Cương mục. Thậm chí bộ luật nhà Thanh của Càn Long thì bên này sao y bản chính.
Một xã hội đầy ắp lễ nghĩa, kỷ cương như thế mà lạ thay lại không phát triển, nhân dân từ Bắc chí Nam lại không chấp nhận. Chính sử nhà Nguyễn đã ghi tới hơn 400 cuộc khởi nghãi chỉ trong mấy triều vua từ Minh Mệnh đến hết đời Tự Đức.
Xin hỏi giáo sư Phan Ngọc và những vị muốn cổ vũ cho Khổng giáo hiện nay: Những thể chế và kỷ cương Khổng giáo mà các vua nhà Nguyễn thi hành ở Việt Nam đã đạt độ bão hoà chưa? Và thế là tốt đẹp hay không tốt đẹp? Kỷ cương như thế là nhân ái hay tàn bạo? Phát triển hay trì trệ? Vì lẽ gì mà người ta lại mau quên những điều đã rõ như ban ngày? Cũng nên nhắc lại ý kiến cảu các vua nhà Trần:
“Nhà nước đã có phép tắc riêng, Nam Bắc khác nhau; nếu nghe kế của bọn học trò mặt trắng tìm đường tiến thân thì sinh loạn ngay.” (Trần Minh Tông).
“Triều trước dựng nước có luật pháp, chế độ riêng không theo quy chế của nhà Tống là vì Nam Bắc nước nào làm chủ nước đó không phải bắt chước nhau. Khoảng năm Đại Tự (Dụ Tông 1338- 1369) bọn học trò mặt trắng không được dùng, không hiểu ý nghĩa sâu xa của việc lập pháp, đem phép cũ của tổ tông thay đổi theo tục phương Bắc cả, như về y phục, âm nhạc…thật không kể xiết…” (Trần Nghệ Tông)
Hồ Quý Ly thực là người kiệt xuất trong lĩnh vực tư tưởng. Chính ông là người đầu tiên ở Việt Nam lên tiếng phê phán Khổng Tử. Tiếc rằng sách Minh đạo của ông đã bị nhà Minh cướp đi nên người đời sau không còn thấy được nguyên vẹn tư tưởng sáng suốt và đầy dân tộc tính của ông. Nhưng, chỉ qia một lời chê trách của Ngô Sĩ Liên cũng đủ thấy tầm vóc tư tưởng của ông lớn lao và đáng phục dường nào. Không có gì đáng ngạc nhiên khi thấy những nhà nho đương thời ra sức phỉ báng những đầu óc sáng suốt như Hồ Quý Ly và ca tụng loại người chuyên nhai bã tư tưởng của phương Bắc.
Và khi nhà Mạc lập ra một triều đình trong đó có các đình thần được tự do tranh luận, thậm chí phê phán đến cả tể tướng và nhà vua thì quả là hết sức không bình thường. Cho nên khi những con người thông tuệ và có ý thức dân tộc sâu sắc như Nguyễn Trãi mà bị chặt đầu, như Ngô Thì Nhậm bị đánh chết ở Văn miếu thì sau này những Bùi Viện, Đặng Huy Trứ, Nguyễn Lộ Trạch, Nguyễn Trường Tộ phải ôm hận cũng là điều bình thường ở xã hội Khổng Nho, chẳng có gì phải bàn nhiều.
Xin đừng bao giờ quy ý thức yêu nước, một vốn rất quý của dân tộc, cho Nho giáo. Ngay những kẻ nho học thực sự của đất nước Trung Quốc cũng rất coi nhẹ quốc gia. Họ coi trọng gia đình, dòng họ, nghĩa là coi trọng huyết thống chứ không coi trọng cộng đồng dân tộc. Để trả thù cho gia đình thì dù nước có mất về tay ngoại bang cũng chẳng sao. Trường hợp Ngũ Tử Tư là điển hình. Còn đất Trung Nguyên Hoa Hạ thì rợ nào vào cai trị cũng đều được coi là chính thống cả. Vua quan và nho sĩ của chúng ta cũng bắt chước như thế. Bên kia coi Nguyên triều và Thanh triều là chính thống thì bên này cũng coi Sĩ Nhiếp là chính thống, được sử gia chép riêng thành kỷ, trong khi đó lại đưa nhà Hồ, nhà Mạc ra ngoài (phụ chép). Thậm chí cũng coi bọn giặc ngoại xâm Phú- lang- sa là chính thống (do đó mới gọi là Tân trào).
Nho giáo ở nước ta còn bảo hoàng hơn Nho giáo Trung Quốc hẳn một bậc, coi nhiều triều đại trong nước là nguỵ triều, nhuận triều không thèm chép thành kỷ như: Hồ, Mạc, Tây Sơn… Đặc biệt sử quán triều Nguyễn còn coi quân xâm lược Trung Quốc là chính thống và coi những người Việt Nam chống xâm lược là nguỵ.
Học giả Trúc Khê đã vạch trần sự ngu muội mất gốc này:
“Cách ghép sử xưa có khuôn phép từ kinh Xuân Thu không thể cẩu thả, mỗi ý mỗi lời đều ngụ ý thưởng phạt khen chê. Song nhà làm sử cương mục (tức sử quán triều Nguyễn) do lòng yêu ghét sai lầm, mê đắm về nghĩa vua tôi trên dưới làm ngòi bút sai lạc. Nguyên lối chép sử xưa: Khi giặc vào quấy nhiễu nước mình thì gọi là nhập khẩu hay lai xâm, giặc kéo đến đâu thì gọi là phạm. Còn quân nhà vua đánh kẻ có tội thì gọi là phạt. Sử quán nhà Nguyễn chép việc nhà Minh xâm lược: Thu cửu nguyệt, Minh khiển đại tướng quân Chu Năng, phó tướng Trương Phụ, Mộc Thạnh đẳng binh xuất binh phạt Hồ Hán Thương (Mùa thu tháng 9, nhà Minh sai đại tướng quân Chu Năng, phó tướng là bọn Trương Phụ, Mộc Thạnh đem binh đánh (kẻ có tội) Hồ Hán Thương)”.
Xem thế mới biết, các nhi sĩ sử gia phần đông ý thức về quốc gia dân tộc rất thấp. Nếu cứ lấy đạo cương thường làm chủ và căn cứ trên mặt sử sách thì biên cương của các hoàng đế Trung Hoa phải xuống tận Hà Tiên chứ đâu có dừng ở Nam Quan.
Cho nên việc rước quân Minh, quân Thanh, quân Pháp, quân Xiêm đối với Nho giáo chẳng có gì sai đạo lý. Và chuyện hoàng đế Gia Long phỉ báng hoàng đế Quang Trung và trân trọng hoàng đế Lê Chiêu Thống cũng là hoàn toàn làm đúng theo văn hoá Khổng giáo, đạo lý Nho giáo (đừng nhầm coi đây là đạo đức dân tộc).
Nói về văn hoá Khổng giáo thì Việt Nam ta vẫn coi "ngữ luân” là đặc sắc và “ngũ thường” là rèn luyện, nhưng mức độ như thế nào cho phù hợp với thực tiễn Việt Nam thì còn ít người quan tâm phân tích. Cứ thấy hiện tượng nào không hợp với giao điều liền kêy lên là trái luân thường hoặc bại hoại luân thường mà không hề xét cụ thể nguyên nhân phải trái ra sao.
Cứ thấy xã hội có gì “hư hỏng”, “xuống cấp” thì lại đổ tại gia đình mà không cần phải đắn đo gì cả, họ đổ tội ngay cho phụ nữ: “Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà”, nghĩa là người ta cứ căn cứ vào cái chuẩn của Khổng giáo. Thước đo này trải hàng ngàn năm tưởng đã lỗi thời nhưng đến nay lại được mang ra “tân trang” để dùng lại.
Một điều rất thú vị là mấy vị đại nho đời Thanh như Đàm Tự Đồng, Nhan Nguyên, Khanh Hữu Vi, Lương Khải Siêu đã từng phê phán khá kịch liệt mặt tiêu cực của ngũ luân. Đàm Tự Đồng đã nhắc một ý rất quyết liệt của Khang Hữu Vi: “Trong ngũ luân, ông chỉ muốn giữ đạo bằng hữu vì có tính cách bình đẳng còn bốn đạo kia đều là đạo áp bức cả. Thuyết quân quân thần thần phụ phụ tử tử của Khổng chỉ đúng một cách tương đối trong thời Xuân Thu mà thôi, nay phải “bỏ” (Trích Trung Quốc triếu học sử giản yếu, Giản Chi dịch).
Trước đây vào thập kỷ 3, Trần Trọng Kim đã từng giương lại ngọn cờ Nho giáo bạc phếch và trước năm 1975 Phủ quốc vụ khanh của chính quyền Sài Gòn cũng ra sức in lại Tứ Thư, Ngũ Kinh, Minh tâm bửu giám, thậm chí cả đến Thọ Mai gia lễ và Nhị thấp tứ hiếu…nhưng thử hỏi có cứu vãn và làm cho xã hội tốt đẹp thêm được chút nào không? Vậy mà đến nay, sau 20 năm giải phóng, người ta lại lôi ra in lại nguyên văn những thứ đó mà không hề có ý kiến nhận xét hay phê phán.
Theo chúng tôi, chúng ta chưa bao giờ xem nhẹ nhân, nghĩa, lễ, trí, tín (ngũ thường) cũng như nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm; chỉ có điều là tất cả những cái đó đã phát huy hết tính năng của nó chưa. Khi bước vào công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ; rõ ràng phải mở rộng nội hàm và ngoại diên của những khái niệm này sao cho thích hợp (cũng cần nhắc lại rằng nhân nghĩa lễ trí tín, đay là kiểu Ta chứ không phải kiểu quân tử Tàu). Cần nhớ rằng Việt Nam ta có khả năng tiếp nhận tất cả, dung hoá tất cả nhưng không hề tiếp thu “trọn gói” bất cứ một hệ thốg giáo lý nào. Đó là về phương diện toàn thể dânt ộc, còn đứng về phương diện bộ phận thì một tầng lớp hay một nhóm xã hội nào đó vẫn có thể có sự nhầm lẫn hoặc ngu muội nên đã tiếp nhận những giáo điều không thích hợp, thậm chỉ cả phần rác rưởi, cặn bã. Không được coi một nhóm xã hội, dù đó là nhóm thống trị cầm quyền, là toàn bộ dân tộc. Ngay bộ phận được coi là tầng lớp trí thức bác học của dân tộc tức là hơn 2.000 vị trạng nguyên và tiến sĩ thì hầu hết các bậc đại nho này chỉ sử dụng trí nhớ mà ít sử dụng trí tuệ. Ngay những người được coi là uyên bác bậc nhất như Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…cũng chủ yếu là sử dụng trí nhớ. Tại sao có thể nói như thế? Vì nếu chỉ cần khoảng 10% số đó biết sử dụng trí tuệ thì đất nước này đã có biết bao phát kiến, phát minh khoa học. Biết bao đời qua nguwofi ta thi nhau ca tụng những nhân vật nhớ nhiều và nhớ dai. Các vị hoàng đế đầu triều Nguyễn càng tỏ ra xuất sắc trong việc khuyến khách kẻ sĩ Đại nam đi theo hướng này. Cho đến nay di hoạ vẫn là chưa hết. Mấy chục năm qua, chúng ta vẫn tổ chức một nhà trường của ký ức chứ chưa phải là một nhà trường của tư duy và “mặt mạnh” của giới nghiên cứu KHXH hiên nay vẫn là sao chép và miêu tả (có lẽ xuất sắc nhất là giới nghiên cứu triết học và giới sử học).
Nhưng phải công bằng mà nhận định rằng đứng về phương diện toàn bộ dân tộc, do giàu tính năng động và sức đề kháng văn hoá nên nó luôn luôn biết loại trừ “dị vật”. Tiêu biểu cho tính năng động và sự đề kháng văn hoá này là bộ phận trí thức cấp tiến nhất trong từng thời kỳ lịch sử. Đây chính là hằng số trí tuệ quyết định sự tồn tại và phát triển của dân tộc.
Chớ nhầm lẫn về sự cất cánh của 5 con rồng!
Trước khi có hiện tượng 5 con rồng thì tình hình các nước ở vùng Châu Á – Thái Bình Dương là sàn sàn nhau, nghĩa là cùng trì trệ và lạc hậu ngang nhau; chỉ riêng có Nhật Bản từ năm 1867 dưới triều Minh Trị đã biết mở cửa sớm để giao lưu với phương Tây nên phát triển sớm hơn. Đáng tiếc họ lại đi theo con đường quân phiệt hoá nên hầu như bị phá sản và kiệt quệ sau Thế chiến thứ hai. Chỉ khoảng vài chục năm trở lại đây, Nhật Bản rồi tiếp theo là Hongkong, Đài Loan, Hàn Quốc và Singapore đã làm những chuyện thần kỳ về kinh tế khiến thế giới kinh ngạc.
Họ trở thành những tấm gương và niềm mơ ước của những nước kém phát triển như ta. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về sự thành công của 5 con rồng. Một trong những công trình gây xôn xao nhiều nhất là của giáo sư Lén Vandermeeersch. Trong cuốn Le Nouveau Monde de sinisé (Thế giới Hoa hoá mới), ông đã phân tích một nguyên nhân quan trọng tạo nên sự thành công của 5 con rồng là văn hoá Khổng giáo.
Thế là văn hoá Khổng giáo vốn là một nhân tố cản trở sự phát triển đột nhiên trở thành nhân tố thúc đẩy sự phát triển. Người ta coi đó như một cứu tinh đối với các nước đang phát triển ở châu Á, trong đó có Việt Nam . Ông còn cho rằng văn tự viết theo khối chữ vuông cũng là một thành tố rất quan trọng để lưu giữ kế thừa và phát triển văn hoá Khổng giáo, phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật.
Ông còn phê phán ta là bỏ chữ Hán quá sớm nên văn hoá Khổng giáo bị bật gốc, truyền thống bị đứt đoạn. Ông cũng khuyến cáo ta nên phục hưng văn hóa Khổng giáo. Có thể coi đó là một phát hiện rất quan trọng của giáo sư Léon Vandermeersch, được nhiều người đồng tình và đánh giá cao. Sau buổi toạ đàm giữa giáo sư Léon Vandermeersch và giới nghiên cứu KHXH ở Hà Nội, tiếc rằng ta chưa tổ chức một buổi thảo luận nào về những quan điểm này. Hơn hai năm qua chỉ lác đác có một số bài đăng trên các tạp chí, chủ yếu là để minh hoạ cho sự đúng đắn của các luận điểm kể trên. Người ta chưa hề vạch ra những nhầm lẫn của giáo sư Léon Vandermeersch về quan điểm và về phương pháp luận.
Trong khi ca ngợi những mặt tốt đẹp của văn hoá Khổng giáo thì giáo sư quên mất tác động của văn hoá Khổng giáo trong hơn 2.000 năm qua so với tác động của 20 năm vừa qua. Về mặt định tính văn hoá Khổng giáo có gì thay đổi đâu, còn về mặt định lượng thì không thể có chuyện ngược đời như thế được. Vả lại nếu năng lượng thúc đẩy ấy quả là có thật thì nơi phát triển trước hết phải là Hoa lục rồi mới có thể đến Hoa đảo và các thứ đảo khác ngoài Hoa. DO đó không nên gán cho nó sức đẩy mà bản thân nó không có. Cả một đất nước Trung Hoa vĩ đại sản sinh ra văn hoá Khổng giáo và quằn quại trong văn hoá Khổng giáo hàng mấy ngàn năm chẳng lẽ lại là một thực tế dễ quên chăng?
Lại nói về chữ khối vuông mà giáo sư Léon Vandermeersch ca tụng là biểu hiện truyền thống tốt đẹp của văn hoá Khổng giáo, và theo ông, những nước như Việt Nam vội vàng bỏ việc học chứ vuông thì coi như hẫng hụt, bị cắt đứt truyền thống và thiệt hại rất lớn.
Giữa ngôn ngữ và chữ viết thiết tưởng không nên cường điệu hoá cái năng lực các kiểu chữ vì dù cho đó là chữ Trung Hoa hay Ả Rập hay La-tinh thì cũng vẫn là những ký hiệu của từng dân tộc hay cụm dân tộc sử dụng để biểu đạt tư duy của mình. Nếu cứ căn cứ vào hiệu quả cảu sản xuất và văn minh thì chữ vuông sao sánh được với chữ La-tinh. Còn Việt Nam , khi đã la-tinh hoá rồi mà vẫn lạc hậu thì là tội của chủ nghĩa thực dân chứ đâu phải vì khôn dùng chữ khối vuông. Vả lại hàng ngàn năm qua trí thức ta dùng chữ khối vuông mà thời kỳ dùng với quy mô lớn nhất lại chính là thời Nguyễn, đâu có phải vì thế mà văn minh tiến hoá hơn.
Đáng lưu ý là khi tỏ thái độ đồng tình hay tiếp nhận luận điểm này thì TS Huỳnh Minh Đức lại đẩy xa hơn tới chỗ: “Chính vì không còn chữ viết nữa mà ngày nay tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Nho bị mất hẳn ở Việt Nam ”. (Vấn đề giáo dục Đại học ở các nước châu Á- Thái Bình Dương).
Còn PTS Mai Quốc Liên lại có một sự ngộ nhận rất kỳ lạ: “Tại sao Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan , Singapore lại giữ được bản sắc vững vàng đến thế? Có nhiều cách trả lời, trong đó có cách trả lời “như đùa” là họ còn giữ thành phần “chữ vuông” trong giáo dục văn hoá. Chữ vuông bản thân nó không là gì cả, nhưng nó là sứ giả nối ta với ngàn xưa vì qua nó là cả một nền văn hoá lớn”. (Sài Gòn giải phóng, Xuân Giáp Tuất)
Cứ căn cứ vào sự viết theo của hai ông thì việc bỏ học tập và thi cử chữ Hán là sai lầm rất trầm trọng của Việt Nam và những lộn xộn và xuống cấp đạo đức hầu như đều do việc bỏ chữ Hán mà ra cả. Riêng ông Mai Quốc Liên còn nói bỏ chữ Hán tức là bỏ mất truyền thống (!?).
Cũng như ông Phan Ngọc, ông Huỳnh Minh Đức nhầm tưởng nhờ học chữ Hán ta mới biết thế nào là nhân nghĩa. Ông cung không phân biệt được nhân nghĩa của Ta và nhân nghĩa của Tàu. Nhân nghĩa của Tàu chỉ trên miệng và trên giấy, điều này lịch sử đã chứng minh. Nếu họ thực hiện chữ nhân thực sự nghĩa là “tứ hải giai huynh đệ” hoặc “kỷ sở bất dục vật thi ư nhâ”” thì làm gì có chuyện chém giết lẫn nhau và khinh bỉ chà đạp các dân tộc khác. Ngay sau Khổng Tử mấy trăm năm mà Hán Vũ đế đã được mệnh danh là “cùng binh độc vũ”. Thử hỏi nhân nghĩa của họ biểu hiện ở chỗ nào?
Còn ở ta, việc vua Nguyễn dùng hình phạt voi giày, ngựa xé, sát hại công thần, trả thù khốc liệt đối phương, thử hỏi nhân nghĩa ở chỗ nào?
Và hiện nay, cứ nghe tin một thiên tai, một rủi ro, mọi người sẵn lòng quyên giúp chẳng lẽ lại không phải là nhân nghĩa?
Tha chết, phóng thích cho hàng chục vạn kẻ thù trong hai cuộc chiến tranh vừa qua, chẳng lẽ lại không phải là nhân nghĩa?
Nói như PTS Mai Quốc Liên là bỏ chữ Hán là cơ hồ cắt đứt truyền thống. Thế chẳng lẽ vừa rồi ta đánh giặc bằng truyền thống của ngoại bang sao?
Cái nhầm của ông Mai Quốc Liên là đã lấy một bộ phận suy thoái, mất gốc để quy cho toàn bộ dân tộc. Một cái nhầm khác của ông là cho các nước con rồng bảo vệ truyền thống tốt lắm. Thực ra không nên lẫn lộn việc giữ gìn chùa chiền, lễ hội, y phục…với nội dung cơ bản đích thực của truyền thống đó là nếp cảm, nếp nghĩ và nếp sống luôn vươn tới của mỗi dân tộc.
Ông Mai Quốc Liên coi chữ vuông quan trọng như thế thì thử hỏi Bắc Triều Tiên như thế nào? Và Trung Quốc trước thời mở cửa ra sao?
Phát triển mà để mất bản sắc thì trở thành vô nghĩa nhưng giữ bản sắc để cứ ở trong tình trạng nghèo đói túng thiếu thì có nghĩa lý gì. Vấn đề ở đây là phải tính tới cả một chiến lược kinh tế, văn hoá, chứ đâu phải chỉ chữ vuông hay chữ không vuông. CHúng tôi cũng chủ trương nên có giờ dạy chữ vuông trong nhà trường, nhưng thần thánh hoá chữ vuông như các ông Huỳnh Minh Đức và Mai Quốc Liên thì thật không cần thiết.
Chẳng lẽ những người ngày nay không biết chữ Hán, chữ Nôm đều là mất gốc cả hay sao? Chẳng lẽ bao chục triệu nông dân của ta lại mất gốc cả hay sao? Xin thưa: chính những người dân ấp, dân lân cổ cày vai bừa đó lại là những người giữ được cái gốc tốt nhất đấy. Chúng tôi chỉ có thể đồng ý với ông Mai Quốc Liên ở điểm này: nếu những người nghiên cứu KHXH mà biết Hán Nôm thì hiệu quả nghiên cứu có thể sẽ tốt hơn.
Cả giáo sư Léon Vandermeersch và các giáo sư của ta khi nghiên cứu 5 con rồng hầu như muốn tách rời văn hoá và kinh tế khiến cho người ta tưởng nhầm rằng văn hoá là chìa khoá vạn năng.
Thật ra thì kinh tế lúc nào cũng ở địa vị gốc, kinh tế nào thì văn hoá nấy, và khi văn hoá đã hình thành rồi thì có tác động trở lại hoặc là thúc đẩy, hoặc là kìm hãm sự phát triển của kinh tế.
Nếu Weber thấy được sự thúc đẩy của đạo Tin Lành đối với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản ở châu Âu và Bắc Mỹ là một sự phát hiện thì Léon Vanderneersch tưởng Khổng giáo cũng có tác động tương tự đối với 5 con rồng, lại là một sự nhầm lẫn. Vì những người chủ trương cải biên Kinh Thánh để tạo điều kiện cho kinh tế tư bản phát triển, đó là một sự vận động nội tại có tính cải biến và thích nghi rất quan trọng. Còn Khổng giáo chưa hề có sự tự thân vận động này. Các giáo điều của nó hầu như vẫn còn nguyên vẹn và vừa qua người ta chỉ lợi dụng những giáo điều nào có lợi cho chủ nghĩa tư bản mà thôi. (Về vấn đề lợi dụng này xin bàn kỹ ở phần sau).
Trong thưc tế, Nho giáo cũng có những thời kỳ tự bổ sung nhưng tựu trung vẫn là bổ sung để củng cố vương quyền, nghĩa là củng cố chế độ quân chủ chuyên chế mà thôi. Chưa hề có một nhà Nho nào cải biến Nho giáo để phục vụ cho chủ nghĩa tư bản. Chỉ có những học giả thời nay muốn phục vụ cho các chủ tư bản nên lục ra những giáo điều cũ và gia công tân trang lại, phục vụ cho sự phát triển kinh tế tư bản. Họ đã gán cho Khổng giáo những tố chất và mục đích tốt đẹp mà bản thân nó không có. Thí dụ một quan hệ được coi là tốt đẹp giữa người với người tức là giữa vua với bầy tôi (quân thần), cha với con (phụ tử), vợi với chồng (phu phụ); thì thực chất là quan hệ chủ tớ.
Cũng nên chân thành khâm phục các vị chủ tư bản ở các nước rồng lớn rồng nhỏ đã biết tận dụng Khổng giáo để khai thác sức lao động của các lớp “tân tiểu nhân” trong mấy thập kỷ vừa qua.
(…) Công ty thép Pohang của Hàn Quốc khoe rằng công nhân của hãng không có ngày nghỉ lễ, cũng không có kỳ nghỉ sau một tuần lao động thường là trên 50 giờ (Tr.256)
(…) Dường như tất cả những người ở Cao Hùng (Đài Loan) từ 14 tuổi trở lên đều bị lôi kéo vào công việc, làm như điên dại, như là bị bỏ bùa mê vậy (tr.83)
(…) Thanh niên Nhật vẫn được chuẩn bị để “chịu đựng mà phục vụ” các ông chủ nước ngoài, những người thường thô bỉ và đôi khi còn tàn bạo nữa (tr.249).
Michael Albert đã có nhận xét thật sắc sảo: “Bộ y tế Nhật đã hoàn thành 1 bản nghiên cứu chứng minh hiện tượng “đột tử” (Karoshi) ngày càng nhiều đối với những người làm công quá sức. Theo bản nghiên cứu này thì hàng năm có 10% những người đàn ông ở tuổi trưởng thành bị chết đột ngột, thực sự là đã “tự sát” trong lao động (…) Giờ giấc hà khắc và lao lực thường xuyên dẫn đến tự sát, ly hôn, nghiện rượu…Sự thần kỳ Nhật Bản lộ ra ở đây các giới hạn của nó”. (Chủ nghĩa tư bản chống chủ nghĩa tư bản, Nxb Thông tin lý luận 1992, tr.191)
Riêng tình trạng phụ nữ Nhật cũng rất đáng chú ý. Vào những thập niên cuối thế kỷ XX mà “phụ nữ Nhật vẫn còn được dạy dỗ để khúm núm và phục tùng” (tr.290) và “một số phụ nữ Nhật ngày nay co rúm lại trước những ông chồng hung bạo”. Nhưng hiện nay họ cũng đã phản ứng lại một cách quyết liệt. Chính phủ Nhật đã có những bản thông báo về tình hình đáng báo động về phụ nữ: họ đòi ly hôn nhiều hơn, số phụ nữ trẻ thích sống độc thân; nhiều phụ nữ già khi chết đã từ chối việc chôn cạnh mộ chồng theo tục lệ.
Qua một số dẫn chứng thực tế như vậy cũng có thể thấy phần nào việc khai thác con người theo kiểu Khổng giáo; hãy thương yêu ông chủ và sẵn sàng làm việc hết lòng với các ông chủ.
Về mặt vật chất, quả là những con người lao động này cũng được hưởng đời sống khá hơn. Nhưng còn về mặt tinh thần? Những dây xiềng Khổng giáo tuy có được nới lỏng nhưng vẫn còn nguyên vẹn trên cổ họ. Những cuộc biểu tình mang tính chất bạo động của công nhân và sinh viên Hàn Quốc biểu hiện cái tâm lý đối với quan hệ giữa người với người chẳng mấy tốt đẹp ở đất nước này. Và mưu đồ dùng kỷ cương Khổng giáo để ổn định trật tự xã hội đâu có phải dễ dàng duy trì mãi mãi!
Ở đây chúng ta gặp một nghịch lý: do nhu cầu phát triển sản xuất, giai cấp tư sản phương Tây phải tiến hành một cuộc cách mạng giải phóng lực lượng sản xuất mà phân nửa là phụ nữ ra khỏi những xiềng xích phong kiến. Trong khi đó, cũng để phát triển kinh tế TBCN, giai cấp tư sản môt số nước phương Đông lại khéo léo sử dụng xiềng xích phong kiến để vắt kiệt sức lao động của họ. Do đó, một nhà báo nổi tiếng của Mỹ là David Hanberstam đã có lý khi nhận xét về Nhật: “Họ đã từng hoàn toàn hiện đại mà vẫn phong kiến đến lạ lùng” (Thế kỷ sắp tới).
Nhưng tại sao giai cấp tư sản các nước đó giải phóng sức sản xuất theo kiểu ấy vẫn đạt được sự thành công. Đừng quên rằng những nước này đã được hưởng các khoản đầu tư và viện trợ rất lớn của Mỹ và các nước tư bản khác; và họ đã biết sử dụng có hiệu quả những khoản này: Theo thống kê thì từ năm 1952-1989, toàn bộ đầu tư của Mỹ vào Đài Loan là 2.75 tỷ USD, của Nhật là 2.86 tỷ USD và của Tây Âu là 1.73 tỷ USD. Ngoài ra còn 3.56 tỷ USD là của Hoa kiều (Thông tin tháng 12-1993- Ban Tuyên huấn Thành uỷ TP.HCM)
Còn Nhật Bản thì:
“Chiến tranh Triều Tiên đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự phát triển và hồi sinh của kinh tế Nhật Bản. Từ năm 1950-1954, Mỹ đã đặt hàng quân nhu trị giá 4 tỷ USD, cộng với 2 tỷ USD viện trợ trước là 6 tỷ USD” (Nhật Bản cận đại, Vĩnh Sính, tr.259).
Chính những con số đầu tư viện trợ khổng lồ cộng với việc chuyển giao công nghệ ở khu vực công nghiệp của CNTB phương Tây đã tạo ra những lực đẩy chính cho sự phát triển kinh tế ở các nước rồng.
Cũng cần chú ý là họ không chỉ tiếp nhận quy trình công nghệ ở khu vực công nghiệp nhẹ (dệt, nhựa) mà cả công nghiệp nặng như chế tạo ô-tô, máy bay, luyện thép..và những kỹ thuật cao cấp như điện tử, vi tính…
Tóm lại là những cất cánh của Nhật Bản và bốn con rồng nhỏ biểu hiện một năng lực trí tuệ và tài năng tổ chức của chính quyền và các giới kinh doanh ở những nước đó. Ngoài việc định ra một chiến lược kinh tế đúng, họ đã biết khai thác, sử dụng những nhân tố tích cực và tiêu cực của Khổng giáo. Họ đã sử dụng Khổng giáo một cách tích cực và hữu hiệu đến mức không thể dân chủ hoá đời sống xã hội hoặc dân chủ hoá một cách miễn cưỡng chậm chạp, không hề tương ứng với nền dân chủ của tư bản phương Tây. Phải chăng có thể coi đây là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa châu Á?
Có điều thú vị là các xã hội phương Tây sau khi đã đi hết cực cá nhân của mình rồi rơi vào trạng thái cô đơn bế tắc lại thấy thèm muốn cái tinh thần cộng đồng đang còn tồn tại ở các xã hội phương Đông.
Không có gì ngạc nhiên khi các học giả phương Tây đổ xô vào ca tụng và cổ động cho ý thức cộng đồng và các quan hệ gia đình, xã hội ở phương Đông; nhưng thật đáng ngạc nhiên khi thấy các học giả phương Đông, trong đó có học giả Việt Nam, lại ca tụng theo và cổ động theo những thứ mà chính vì nó mà phương Đông chậm phát triển trong nhiều thế kỷ qua. Tinh thần cộng đồng từng đóng góp những mặt tích cực trong lịch sử chống thiên nhiên hoặc ngoại xâm nhưng đồng thời cũng cản trở nghiêm trọng do sản phẩm của nó là chủ nghĩa bình quân, chủ nghĩa kinh nghiệm.v.v…
Tiếc rằng tất cả các học giả ở hai phương trời đều không nhớ hộ rằng: một trong những vấn đề trọng đại hàng đầu của phương Đông hiện nay là phải hoàn thành cái công đoạn giải phóng cá nhân để phù hợp với qui luật tiến hoá của nhân loại.
Hàng nghìn năm qua, các xã hội phương Đông đã biểu hiện hết mặt tốt và sức mạnh của cộng đồng nhưng các thành viên của nó luôn bị nhấn chìm và hoà tan trong cộng đồng, vì thế năng lực của từng cá nhân chưa bao giờ được phát huy theo đúng khả năng của nó, sức sản xuất của phương Đông trì trệ cũng là nguyên nhân này. Chỉ có điều cần rút kinh nghiệm là làm thế nào cho mỗi cá nhân được giải phóng vẫn giữ được mối liên hệ tốt đẹp với cộng đồng. Nghĩa là giữa cá nhân và cộng đồng giữ được mối quan hệ hài hòa và không ngừng phát triển.
Hài hoà và ổn định để phát triển chứ không phải để dẫm chân tại chỗ, hoặc giật lùi tụt hậu về quá khứ.
Vấn đề của Việt Nam ta
Vấn đề còn lại là Việt Nam ta sẽ phát triển thế nào để đuổi kịp được đà tiến của nhân loại đồng thời không đánh mất bản sắc dân tộc của mình.
Trước hết, ta cần phải xem lại xem nước ta có phải là nước Nho giáo không. Nếu chỉ xét về các thiết chế chính trị và giáo dục với việc sử dụng chữ khối vuông thì đúng là Nho giáo. Nhưng nếu xét theo tâm lý, nếp sống, nếp nghĩ và toàn bộ hoạt động của dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử thì không hẳn Nho cũng chẳng là Phật hay Lão, mà tất cả các chất Nho, Phật, Lão đó đều được Việt Nam hoá rồi. Cũng như không thể xét số lượng chùa chiền và người theo Phật giáo đông mà bảo Việt Nam là nước Phật giáo được. Cũng không phải khi đã từ bỏ chữ khối vuông rồi chỉ dùng chữ Quốc ngữ, chữ Pháp mà đã bảo là đã Âu hoá rồi. Vì Việt Nam là một tính cách mạnh mẽ, không dễ bị “hoá” như người ta từng mưu mô, mong muốn hay tưởng tượng. Nhưng lối sống của ngoại bang có những thời kỳ du nhập rất mạnh mẽ, thậm chí dùng cả quyền lực để áp đặt như thời kỳ Bắc thuộc, Pháp thuộc, nhưng cũng không đủ sức làm biến hoá bản sắc dân tộc Việt. Việt Nam có sức đồng hoá những thành tố văn hoá ngoại nhập và biết loại bỏ những gì không phù hợp với mình. Tiếng Việt là một chứng tích hùng hồn, nó có thể du nhập tới 70% từ Hán và 10% từ Anh, Pháp. Nhưng cả cách phát âm lẫn cấu trúc ngữ pháp thì nó vẫn là Tiếng Việt chứ không phải là tiếng nào khác. Lâu nay ta cứ có một cái nhầm gọi những từ Việt gốc Hán là từ Hán Việt; phải gọi là từ Việt Hán mới chính xác. Tất cả những phong tục tập quán cũng thế, đặc biệt về mặt tư duy thì người Việt Nam vẫn giữ được tư duy riêng của mình. (Vấn đề này xin bàn vào dịp khác).
“Hội hoạ Việt Nam phải bộc lộ được bản sắc riêng, góp một tiếng nói với nghệ thuật thế giới. Dù là một tiếng nói nhỏ bé nhưng là tiếng nói của mìn, không lai căng của Tàu hay của Tây. Tôi cảm thấy hãnh diện là mình không mất rễ, không chịu mất rễ và sau 15 năm đụng chạm trực tiếp với phương Tây, tôi nhờ sức phản ứng mà phá tung được mọi xiềng xích nô lệ do sự lệ thuộc vào lối nhìn như vậy. Ảnh hưởng của hội hoạ Trung Quốc và Tây phương thời kỳ đô hộ chính là nhờ ở lòng ham muốn tự do và ở cái chí khí quật cường của dân tộc, tôi mới tìm đuwocj một đường lối giải thoát cho nghệ thuật của tôi” (Phạm Tăng- Người hoạ sĩ Việt Nam ở Roma, báo Văn nghệ số 15, ngày 9-4-1994).
Cách nghĩ của hoạ sĩ Phạm Tăng có thể coi như là một tiêu biểu cho một lối nghĩ Việt Nam . Hoạ sĩ Phạm Tăng nghĩ đúng và hành động đúng vì chính với lối nghĩ đúng đó mà người Việt Nam không bao giờ bị Hán hoá, Pháp hoá, Mỹ hoá. Một vấn đề cốt tử hiện nay là Việt Nam phải giàu mạnh. Đây là một cái đích đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi rõ trong Di chúc của Người: “Chúng ta phải phấn đấu để xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh”.
Rõ ràng chúng ta đã hoàn thành được 3/5 mục đích phấn đấu này một cách xuất sắc. Chúng ta cũng phải giải quyết 2/5 còn lại thật tốt. Không dân chủ hoá xã hội chủ nghĩa là cũng không giải phóng được năng lực của mọi công dân Việt Nam . Và tất nhiên cũng không thể giàu mạnh được. Một dẫn chứng trong nông nghiệp cũng chứng tỏ sức mạnh của dân chủ, chỉ cần khoán ruộng đất cho nông dân để họ tự do canh tác trên mảnh đất của mình thì không những đã thanh toán được nạn thiếu đói kinh niên mà còn thừa gạo để xuất khẩu. Nhưng thật là cực kỳ mâu thuẫn khi vừa nói dân chủ lại vừa nói đến phục hưng Khổng giáo. Phải nhớ phi dân chủ là một nhược điểm cơ bản của Khổng giáo: tam cương, ngũ thường, tam tòng, tứ đức vẫn chỉ duy trì mối quan hệ bất bình đẳng mà thôi.
Chúng ta không chấp nhận dân chủ cực đoan kiểu phương Tây và cũng không cần giống bất cứ nước nào ở phương Đông.
Chúng ta phải xây dựng một quan hệ mới, mỗi cá nhân có quyền phát huy toàn bộ năng lực của mình và phải hoà hợp với cộng đồng, giàu tình thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Về tình thương yêu giúp đỡ lẫn nhau thì đạo lý dân tộc đã đúc kết rất rõ:
- Chị ngã em nâng.
- Thương người như thể thương thân.
- Người đi trước rước kẻ đi sau, kẻ đi sau theo mau người đi trước.
- Anh em như thể tay chân
- Thuận vợ thuận chồng, biển Đông tát cạn
- Thuần bè thuận bạn, tát cạn biển Đông.
Tính chất nhân bản trong ứng xử thì người Việt Nam chúng ta đã có từ thời tiền Nho giáo, còn khi Nho giáo du nhập rồi chỉ bổ sung làm cho đạm thêm thôi. Còn cái mà ngày nay chúng ta cứ kêu là “đạo đức xuống cấp” thì đó là sự khủng hoảng tất nhiên của thời kỳ chuyển tiếp từ kinh tế tiền công nghiệp sang công nghiệp. Đạo lý cũ dẫu tốt đẹp cũng không đủ nữa, trong đó lại có những cái lỗi thời phải loại bỏ, cho nên sự hụt hẫng là tất nhiên. Cái gọi là xuống cấp là thế. Có lẽ nên gọi là độ vênh tất yếu giữa vector đạo lý và vector kinh tế- xã hội và nếu muốn cho phù hợp thì vector đạo lý phải tăng cả độ dài và vận tốc. Do đó, kể cả đạo lý cũ lẫn đạo lý mới ở thời kỳ xây dựng một nền kinh tế công nghiệp đều cần phải được thể chế hoá, pháp chế hoá.
Trong việc pháp chế hoá này, chúng ta phải hết sức quan tâm đến tính sòng phẳng. Sòng phẳng quá đến mức cạn tàu ráo máng hoặc lạnh lùng như phương Tây thì không nên. Nhưng cứ áng chừng, xuề xoà, đại khái theo kiểu tiền công nghiệp thì cũng không ổn. Nói khác đi, ở đây phải có sự thoả thuận mới mang tính pháp lý, và đều phải được văn bản hoá. Vấn đề này thuộc trách nhiệm của các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Sự thật là tất cả các giáo điều và tín điều Khổng giáo, kể cả những điều tốt đẹp nhất cũng đều không được pháp chế hoá. Chỉ những giáo lý nhằm củng cố sự bất bình đẳng và áp bức tì lại pháp chế mà chỉ pháp chế hoá một chiều, nghĩa là nó mang tính bất công, phi dân chủ.
Cái tính phi dân chủ của Khổng giáo rất nhiều mâu thuẫn với chiêu bài dân chủ của giai cấp tư sản nhưng nó lại phù hợp với thực chất phản dân chủ của chủ nghĩa tư bản. Chính vì thế nên được các tập đoàn tư bản của các nước con rồng khai thác triệt để.
Với định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể bắt chước họ để khai thác Khổng giáo theo kiểu đó được vì trên thực tế, tất cả những gì tốt đẹp của Phật giáo, Khổng giáo, Lão giáo…đều đã có trong tâm thức dân tộc, trong đạo lý dân tộc và tất cả những gì lỗi thời lạc hậu đã bị lịch sử vượt qua không nên phục hồi lại nữa.
Mục đích cuối cùng (tức là cứu cánh mục đích) của sự nghiệp phát triển kinh tế của chúng ta không phải lợi nhuận mà là hạnh phúc của con người. Lợi nhuận (không được phép coi thường nó) mà chúng ta phải tìm kiếm chính là phương tiện để tạo ra hạnh phúc cho con người. Hạnh phúc này không dừng lại ở mặt vật chất mà phải đảm bảo cả về mặt tinh thần và văn hoá. Trước hết, con người phải được bảo vệ chứ không phải là nạn nhân của tệ nạn bạo hành, bạo lực hoặc của định kiến và lề thói hủ lậu. Đây không thể là những điều lý luận suông mà phải được pháp chế hoá và thực thi.
Nói như thế để thấy rằng vấn đề cấp thiết đặt ra cho Việt Nam chúng ta trước ngưỡng cửa thế kỷ mới là giới nghiên cứu cũng như giới quản lý xã hội phải bàn bạc kỹ và hình thành cho được mọi hệ thống lý luận thích ứng với thực tiễn xã hội Việt Nam đang vận hành. Chệch hướng đã không được mà quay ngược trở lại càng không được.
Chúng tôi suy nghĩ nhều về ý kiến của giáo sư Trần Văn Giàu. Trong tham luận đọc tại hội thảo quốc tế về Khổng giáo, giáo sư nói: “Tôi chú ý rằng trong tất cả các bài viết và bài nói của mình trong suốt 60 năm hoạt động, cụ Hồ khong khi nào công kích Nho giáo. Điều đó không có ý nghĩa là cụ hoàn toàn tán thành theo Nho giáo”. (Hội thảo quốc tế về Nho giáo ở Yokohama- Nhật Bản 1991). Nói như thế, trước hết giáo sư đã mâu thuẫn với chính bản thân mình.
Trong tác phẩm bộ ba rất quan trọng của giáo sư- Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám- giáo sư đã rất có lý khi viết:
“Nhà viết sử ngày nay thì đòi văn bản, nhưng người làm nên sử ngày trước thì sống và chiến đấu theo một truyền thống Việt Nam khá đặc biệt (chúng tôi nhấn mạnh) mà ba câu sau đây trong thiên Danh phận của sách Nam Sơn tùng thoại có thể lột được ý chính:
Hạ sĩ lấy văn vẻ là văn vẻ
Thượng sĩ lấy lời nói làm lời nói
Danh nhân lấy công nghiệp làm lời nói
Lời nói của sự nghiệp, của hành động bao giờ cũng là lời nói chân thật, nhiều khi còn chân thật hơn bất cứ văn vẻ nào. Trong nhiều trường hợp, cần lấy hành động sự nghiệp làm một thứ “văn bản” chứng minh cho sự phát triển tư tưởng, không thể từ chối cách này được”. (tập 1, tr.250).
Đúng! Trong trường hợp danh nhân Hồ Chí Minh càng cần lấy hành động, sự nghiệp làm một thứ văn bản chứng minh cho sự phát triển tư tưởng của Người. Tất nhiên, phải thông cảm với Người, trên thực tế lẫn văn bản, Người không thể công kích Nho giáo như những người khác. Nhưng dù hết sức cận trọng, cũng có lúc Người đã nhẹ nhàng mỉa mai Khổng giáo bằng văn bản:
Khổng gia thế lực kim hà tại?
Chỉ thặng tà dương chiếu cổ bi.
(Phỏng Khúc phụ)
Giáo sư Đặng Thai Mai đã dịch:
Uy quyền họ Khổng giờ đâu nhỉ?
Lấp loáng bia xưa chút ánh tà.
Chúng tôi đã mạn phép giáo sư sửa từ “lấp loáng” vì nó sang trọng quá, không đúng tinh thần nguyên tác. Thay bằng từ “rơi rớt” có lẽ chính xác hơn.
Giáo sư Trần Văn Giàu cũng viết rằng:
“Có nhà lãnh tụ nói: tổ chức tăng sức mạnh mười lần; cụ Hồ dạy: đạo đức tăng sức mạnh lên gấp bội. Mà đặc điểm lớn về Nho giáo là nói ít về trời và tín ngưỡng mà nói nhiều về người và đạo đức. Cho nên có giáo sư sử học Pháp cho rằng thật đậm những dấu ấn mùi vị sắc thái Nho giáo trên tư tưởng phong cách của cụ Hồ. Điều đó dễ hiểu khi viết: nước Việt Nam nghìn năm dùng chữ Hán mà theo đạo nho, khi biết gia đình ông Hồ và ông Hồ thời trẻ tắm gội trong biển Thánh” (sách đã dẫn).
Dù hết sức kính trọng giáo sư Trần Văn Giàu và vị “giáo sư sử học Pháp”, chúng tôi cũng phải xin phép thẳng thắn được nói rằng các vị đã nhầm.
Nếu quả Hồ Chí Minh của chúng ta là người “tắm trong biển Thánh” và tư tưởng phong cách của Người “đậm những dấu ấn, mùi vị sắc thái Nho giáo” thì làm sao Người dám bỏ lại cha già nơi đất khách để đi tìm đường cứu nước ở tận phương trời Tây (phụ mẫu tại, bất viễn du: cha mẹ còn, con không được đi chơi xa). Và chắc hẳn Người cũng không dám từ bỏ việc lập gia đình để chuốc lấy tội đại bất hiếu (bất hiếu hưu tam, vô hậu vi đại: bất hiếu có ba điều, điều lớn nhất là không có con trai nối dõi tông đường). Bác Hồ thực hành chữ hiếu theo truyền thống Việt Nam , Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi cùng từng “hiếu” theo truyền thống đó. Tuyệt nhiên không phải hiếu theo kiểu Tống Nho. Và suốt đời Người đã đấu tranh giải phóng con người bị áp bức, đặc biệt là giới phụ nữ và tầng lớp tiểu nhân khó dạy (duy nữ tử dữ tiểu nhân nan dưỡng dã) sao lại có thể nói là “cụ Hồ không khi nào công kích Nho giáo”. Thử hỏi, đối với Nho giáo thì có sự công kích nào dữ dội hơn thế không?
Đáng tiếc là học giả Nguyễn Khắc Viện có nhiều luận điểm đúng đắn trong khi “bàn về đạo Nho”, ông lại tỏ ra phân vân, do dự trước trào lưu Tân Khổng Giáo. Ông viết:
“Gần đây, một học giả Nhật Bản cũng luận điểm là Nho giáo đã giúp cho các nước như Nhật, Đài Loan, Hàn Quốc dễ tiến lên hiện đại”. (Bàn về đạo Nho).
Ông không nói rõ tên học giả đó và cũng buông lửng không bàn về lẽ đúng sai của luận điểm này. Người đọc cảm phục công phu tự học Nho giáo của ông nhưng cũng không tránh khỏi ngạc nhiên khi thấy ông khẳng định: Tóm gọn lại: “Đạo lý là Nho”. (tr.56).
Điều này chưa chính xác. Nho có đạo lý của Nho. Phật có đạo lý của Phật. Lão có đạo lý của Lão, mà dân tộc Việt Nam ta từ ngàn xưa tới nay đâu có theo dứt khoát một thứ đạo lý nào. Trong quá trình phát triển, dân tộc Việt Nam ta xuất phát từ đạo lý của đạo Mẫu rồi hấp thụ tinh hoa của Phật, Nho, Lão, Marx-Lénine…để tổng hoà thành đạo lý Việt Nam .
Nhân đây cũng nói một sự nhầm khác tương đối phổ biến. Nhiều người cứ tưởng rằng khôi phục đạo lý của dân tộc là trở lại với một số nghi thức phong tục xưa như ăn mặc, lễ tiết của vài ba thế kỷ vừa qua. Đâu có phải cứ khăn đóng áo dài hay sì sụp lạy lễ mới là dân tộc. Theo kiểu suy nghĩ này biết đâu lại chẳng có người sẽ đề nghị nhuộm răng đen và đóng khố đuôi lươn để bảo vệ truyền thống.
Vấn đề thì nhiều, ở đây chúng tôi chỉ đề cập sơ qua để thấy rằng vấn đề truyền thống và hiện đại là quá lớn, quá rộng.
Thực tế đã cho thấy rằng, các tập đoàn ở các nước rồng lớn rồng nhỏ đã khéo sử dụng vốn đầu tư, vốn kỹ thuật của nước ngoài và một số yếu tố trong văn hoá Khổng giáo của họ để tạo ra những bước phát triển thần kỳ. Đáng khâm phục thật đấy nhưng đừng nhầm rằng cứ đi theo con đường của họ thì cũng sẽ gặt hái được những kết quả tương tự….
(*) Tạp chí thông tin lý luận số 10-1994 đã trích đăng phần thứ ba công trình này với nhan đề "Chớ nhầm lẫn về sự cất cánh của 5 con rồng!".
(87) Hà Ngọc Đình- Việt Nam Nho học đích tuyền bá hoà ảnh hưởng. La Trường Sơn- Việt Nam khoa cử tam giáo khảo cứu vấn đề sơ thám. (Tạp chí Đông Nam Á tung hoành Quảng Tây, tháng 12-1993)
(88) Hoàng Tranh: Trung Việt quan hệ sử nghiên cứu tập cảo. Nxb Nhân dân Quảng Tây. 1992
Trần Khuê
Nguồn: Nghiên cứu và Tranh Luận
Xem thêm: Nhìn thấu thao tác chữ nghĩa của Nho học
Xem thêm: Nhìn thấu thao tác chữ nghĩa của Nho học