Là một sự hiểu biết mà làm cho tâm mình không dao động, làm cho tâm mình không đau khổ. Đó là sự hiểu biết của ý thức của chúng ta chứ không có gì, đó gọi là Tuệ. Cho nên gọi là tri kiến giải thoát"
Hôm nay, bắt đầu Thầy sắp lớp cho mấy con căn cứ vào: thứ nhất là những cái bài mà hôm qua Thầy cho đề tài để xem coi mấy con có cái sức hiểu biết quán về cái nhân quả của thảo mộc. Đó là đề tài mà hôm qua Thầy đã cho mấy con để thử cái sự hiểu biết của mấy con về nhân quả. Đây là cái căn bản nhất mà hiểu biết về nhân quả rất là khoa học.
Nhân là cái hạt, mà quả là cái trái, mà nó thuộc về nhân quả thảo mộc, thì ai cũng biết chắc chắn đó là cái hạt thì mới lên được cái cây, cái cây mới ra được cái quả. Mà đó là cái sự thật, đó là nhân quả đúng, không có còn mơ hồ, không còn sai. Vậy thì, các con luận như thế nào để mà nói cho nó rõ ràng về cái nhân quả thảo mộc. Nếu mấy con nói về nhân quả con người thì nó trật, bởi vì đây là nó có đề tài, nó rất là rõ ràng, cụ thể.
Mình nói về nhân quả thảo mộc, tức là mình suy nghĩ để mình chứng minh khi mình nói đến những sự trừu tượng của nhân quả, thì nó có sự chứng minh làm cho người ta hiểu, mình không có nói chuyện mơ hồ mà nói chuyện nhân quả rất rõ ràng.
Cho nên, để xác định được cái nghĩa Nhân là gì, Quả là gì? Thay vì mình giải thích suông Nhân là cái hạt, mà Quả là cái trái thì nó đơn thuần như vậy. Nhưng mình phải nói cái nghĩa của nhân quả, để rồi từ đó mình nói đến cái nghĩa của nhân quả của từng cái hành động của chúng ta. Nhưng bây giờ chúng ta chưa nói, chưa nói cái nhân quả đó, mà chúng ta chỉ nói đến nhân quả thảo mộc mà thôi. Nếu mấy con nói xa hơn thì mấy con bị lạc đề, nếu viết xa hơn là lạc đề mà nói không đủ thì mấy con thiếu chưa đủ, tức là mình chưa hiểu hết nhân quả của thảo mộc.
Nếu mà nói đúng thì lần lượt cái bài mà để về Định Vô Lậu quán về nhân quả thì lần lượt mấy con sẽ đi từng bước một, nhân quả thảo mộc, rồi nhân quả thời tiết tức là nắng mưa gió bão thời tiết, rồi mới tới nhân quả của con người, mà nhân quả của con người tức là nhân quả của loài động vật. Từ nhân quả mà nói đến con người, thì chúng ta mới truy tìm nhân quả từ đâu mà có nhân quả, bắt đầu nó từ cái chỗ cụ thể là nhân quả của thảo mộc, rồi từ đó chúng ta mới suy ra, mới tìm ra để chỉ cho người ta thấy nhân quả rõ ràng và cụ thể.
...
Tu sinh: Thưa Thầy, con có đọc cái cuốn sách của hoà thượng tổ sư Minh Đăng Quang, bạch Thầy, có nói rằng nhân quả từ cái cây do thời tiết nó sinh các loài thảo mộc, rồi các loài thảo mộc nó mới phát triển thành cây lớn, từ đó các cây lớn có tích tụ lâu nó mới thành một cái thần, rồi sau đó nó mới phát triển thành con người. Dạ như vậy có có không Thầy?
Trưởng lão: Không có. Cây là cây, mà con người là con người, động vật là con vật. Nhưng trước khi nó từ cái hành nó hoạt động trong vũ trụ, bây giờ thí dụ như môi trường chết như ở cung trăng nó đâu có cây cỏ đâu nó là môi trường chết, nhưng mà nó có cái hành nó hoạt động cho đến một triệu, hai triệu năm sau thì cung trăng nó sẽ là môi trường sống. Do cái hành đó, nó mới hoạt động rồi nó mới tạo thành cái duyên nó hợp lại, nó hợp cho đến khi nó có những cái màu mỡ nó mới sinh ra cái loài thảo mộc, rong rêu, rong rêu nó mới chết, mới chết nó mới để lại cái chất màu mỡ, chất màu mỡ có thể hợp đủ duyên sinh nó mới sinh ra cây cỏ. Cây rong trước, xong rồi mới đến cây cỏ sau. Rồi từ cây cỏ nó chết, nó mới để lại cái duyên, rồi từ trường nó phóng ra từ trường để nó hợp với cái duyên rồi nó mới sinh ra cái thảo mộc.
Nhưng mà bây giờ Thầy không muốn nói cái đó, nếu mà mình muốn nói về cái nguyên nhân sinh ra nhân quả thì mình phải đi vào nhân quả của thời tiết rồi, cái nhân quả thời tiết mới nói cái đó. Còn bây giờ, mình chỉ nói cái nhân quả thảo mộc là hiện mình thấy cái hạt sinh ra cái trái thôi đủ rồi.
Tu sinh: Nhưng mà ngày hôm qua con có nghe Thầy nói quán, quán về nhân quả của loài thảo mộc phải không ạ?
Trưởng lão: Quán về nhân quả của loài thảo mộc.
Tu sinh: Nhưng mà nếu mà quán thì quán về cái nhân, cái nhân ban đầu, những cái nhân có hạt giống mới có cái nhân. Nhưng từ ban đầu từ đâu mà có hạt giống?
Trưởng lão: Từ đâu mà có hạt giống, tức là chúng ta phải quán qua thời tiết rồi, nhân quả của thời tiết chứ không thể nào. Bởi vì, thời tiết mới có nắng mưa gió bão, nó mới có lên được cây thảo mộc, nó mới có cái hạt. Ví dụ như, nguyên nhân sinh ra để có cái hạt, cái nhân mới có cái hạt. Từ đó nó mới có mưa gió ẩm ướt, nó mới lên cây rong, chứ không phải cây rong nó có cái hạt con hiểu không? Cái hạt nó mới lên cây rong. Thì cái nguyên nhân của thời tiết nó mới sinh ra cây rong, nhưng mà ở đây Thầy nói cái hạt, cái nhân. Nhân quả tức là chỉ định cái hạt và cái quả của nó thôi.
Tu sinh: Nếu mà chính cái nhân, thì cái nhân bắt nguồn từ đâu chứ Thầy?
Trưởng lão: Bắt nguồn từ cái chỗ thời tiết. Nhưng mà điều kiện là, Thầy đã nói rồi mình chưa có quán tới thời tiết. Bởi vì bây giờ con quán thời tiết thì mơ hồ làm cho người ta không hiểu, mà đi vào nhân quả là cái hạt và cái trái để cho người ta cụ thể, rồi lần lượt mình đi đến chỗ đó mình dẫn chứng thì người ta mới hiểu. Còn nếu bây giờ con đi ngang vô nhân quả người ta còn chưa hiểu cái danh từ nhân quả nữa, tức là muốn giải thích nhân quả thì phải giải thích nghĩa, mà giải thích nghĩa thì chúng ta đi vào nhân quả của thảo mộc trước. Nhưng mà nói đến nguyên nhân sinh ra thảo mộc thì tức là chúng ta nói đến thời tiết, đề tài nó phải đi tới thời tiết.
Tu sinh: Nếu như vậy, khi một bài viết ra hỏi về nguyên nhân cái hạt giống thì sao ạ?
Trưởng lão: À chưa, cái này là tôi chỉ nói cái hạt giống và cái quả để sinh ra thảo mộc thôi, để nói về nhân quả thôi, đó là tôi nói về thảo mộc thôi, tức là có cái hạt giống mới lên cái quả, còn tôi chưa nói đến nguyên nhân sâu xa, sinh ra loài thảo mộc. Tức là tôi muốn nói nguyên nhân sâu xa tức là nhân quả sâu xa đó. Nhưng mà bây giờ nói về nhân quả sâu xa đó là phải có đề tài gọi là nhân quả thời tiết. Bởi vì thời tiết có nắng mưa gió bão, có độ ẩm, có không khí thì nó mới có cái duyên để mà nó từ rong rêu, thảo mộc. Thảo là cỏ, rồi mới tới mộc, rồi mới cây, rồi mới thể hiện được nhân quả. Cho nên tôi đi vào chỗ này nhân quả là tôi muốn giải thích về nhân quả đó.
Tu sinh: Dạ thưa Thầy vậy là chỉ nói về nhân từ cái hạt sanh ra cái trái?
Trưởng lão: Đúng rồi, nói từ cái hạt. Bởi vì mình muốn nói về nhân quả thì mình nói về cái hạt, cái trái của nó. Cái đó nó cụ thể. Bây giờ thí dụ, Thầy có cái hạt giống người ta cho Thầy cái hạt giống, Thầy không biết cái hạt giống từ đâu nhưng người này có cho Thầy, Thầy nói bây giờ cái hạt này Thầy sẽ ươm, Thầy tưới nước, Thầy nhổ cỏ nó mới lên thành cái cây, cái cây này mới cho Thầy cái quả, cái quả này cay, đắng, hoặc quả này nó ngọt. Nói tới đó đủ rồi.
Bây giờ mới kết luận của sự thọ hưởng này, nếu Thầy trồng cây ớt thì Thầy phải ăn quả ớt đắng thôi. Chứ đâu biết là đắng nhưng mà ngầm trong đó là mình nói chuyện ác đó, chứ mà mình chưa nói ra nhưng mình nói cho người ta biết.
Tu sinh: Có chứng minh qua nhân quả loài người không ?
Trưởng lão: Chưa, chưa tới, cái đó chưa tới con còn dài lắm, nhân quả nó đâu có quán thế được.
Bắt đầu cho người ta hiểu cái nhân, cái quả đã, rồi sau đó mình mới đưa người ta đi vào cái chỗ nhân quả của hành động, rồi mình mới vào cái chỗ nhân quả của thiên nhiên, thời tiết. Lúc bây giờ càng lúc nó càng rõ ra. Mấy con làm đúng thì nộp, mà chưa đúng thì xem lại. Nó chỉ từng phần đi vào quán nhân quả, nó không phải là quán lộn xộn đủ thứ hết, hổng được. Nó đi từng phần, từng phần, rồi từ đó mình mới thấy rõ ràng nhân quả nó rất là rõ.
Hôm nay Thầy cho cái đề tài nhân quả của thảo mộc, Thầy có dặn trước là đừng có truy tìm cái nguyên nhân sinh ra cái cây thảo mộc. Mà đây là chỉ nhân quả để giải thích cái nghĩa của nhân và quả. Cũng như đầu tiên mà nói về nhân quả, thì người ta giải thích cái chữ nhân là gì, chữ quả là gì. Ví dụ nhân là hạt, quả là trái. Người ta giải thích cái chỗ đó ra, nhưng mà đây là đề tài thiên nhiên nên mình lấy cái nhân quả của hạt, trái mình nói ra, trái đắng, trái ngọt để mình đưa vào cái thiện, ác của nó thôi.
Cho nên, khi mà kết luận của nhân quả thì quả ngọt thì mình thích, mà quả đắng cay thì mình không thích. Do muốn nói cái chỗ này để cho mình dựng nên nhân quả bắt đầu cụ thể rõ ràng. Ví dụ, nói hạt và trái thì chắc chắn ai cũng hiểu, đó là một sự thật, không thể ngoài vấn đề mà không có hạt thì không thể nào có trái mà ăn. Nó như vậy.
Đó, thì lần lượt mấy con lần lượt những cái bài này, nó còn nhiều lắm. Bây giờ nói về nhân quả của thảo mộc, rồi sau đó mới nói về nhân quả thời tiết để truy tìm nguyên nhân. Hay hoặc là Thầy sẽ cho đề tài nhân quả của con người, rồi sau đó mới truy ra cái sâu xa của nhân quả. Mà nói về nhân quả của loài người thì con người từ nhân quả mà sinh ra, vậy thì nhân quả sinh ra nó do chỗ nào? tức là do môi trường sống mà có.
Do thì lần lượt Thầy sẽ cho những đề tài đó, nhưng mà Thầy nghĩ rằng cái đề tài lần lượt Thầy sẽ sắp xếp những đề tài này cho mấy con cho nó phù hợp. Ví dụ như thay vì Thầy cho nhân quả con người trước thì nó không hợp với nhân quả thảo mộc. Nếu Thầy cho nhân quả thời tiết tức là mình truy nguyên cái nhân quả, cái gốc từ đâu mà sinh ra nhân quả thì nó quá xa, quá mơ hồ.
Cho nên Thầy sẽ cho lần lượt, thí dụ như bây giờ Thầy cho nhân quả của thảo mộc, rồi tới thay vì Thầy cho nhân quả của một con người, của động vật thì Thầy không cho mà Thầy cho nhân quả của thời tiết để truy ra cái gốc rồi mới tới con người. Con người sinh ra nó nằm ở chỗ nào mà nó có những hành động nhân quả của nó, mà trong cái nhân quả của con người thì có ba nơi xuất phát nhân quả : Thân, Khẩu, Ý. Đó là nhân quả của con người.
Nhưng ở đây chúng ta chỉ nói là nhân quả của một thảo mộc mà thôi. Từ cái nhân lên cái cây thành cái quả. Có vậy thôi. Chúng ta chưa nói, nói thảo mộc là cái tên nói chung, chứ sự thật chúng ta nói về cái loại mộc, còn thảo ( cỏ) chúng ta chưa nói. Nhưng cây cỏ cũng có bông, trái chứ đâu phải không nhưng mà chúng ta nói chung, gộp chung lại, chúng ta giải thích về nhân quả của thảo mộc mà thôi. Tức là cái hạt lên cây cho ra cái trái là tạm đủ và kết luận cái bài đó ở tại chỗ đó để chúng ta cảm thấy rằng khi mà gieo cái hạt của loài cây đắng, hoặc là cái cây cay thì sẽ cho chúng ta những cay đắng, còn cái hạt mà cho quả ngọt, thì chúng ta thọ hưởng quả ngọt. Đến đó đủ rồi chúng ta không nói gì nhiều nữa, rồi đến những bài khác.
Do những bài này, tất cả tập trung nó lại thành một cái nhân quả, một cái đạo luật nhân quả, rồi từ đó kết luận của một cái đạo luật nhân quả này nó trở thành đạo đức không làm khổ mình, khổ người. Nó đi dần dần mà Thầy sẽ hướng dẫn cho mấy con làm những đề tài đó.
...
Tại vì chúng ta không hiểu nhân quả thì chúng ta hay phiền não lắm, hay khổ đau lắm. Khi mình hiểu nhân quả, trước cơn đau của cái bệnh mình, mình biết cái nhân quả. Bởi vì, mình đau là cái quả mấy con, mà do cái nhân nào mà mình đau. Từ cái chỗ mình hiểu biết do đó mình thấy mình không giao động trước cái quả khổ của mình. Cũng như mình thấy một người khác họ mắng chửi mình, mình biết họ là người đang gieo một cái duyên của một cái nhân ác và mình là người đang trả quả. Do đó mình đã bị người ta chửi, nhưng mà mình lại không có để cho cái quả đó làm cho mình đau khổ cho nên vì vậy mình thấy mình đang trả quả và đồng thời mình giữ gìn tâm mình đừng để cái nhân quả đó làm cho tâm mình giao động. Thì như vậy, rõ ràng trước nhân quả mà nhân quả không tác động được mình mà mình lại chuyển được nhân quả đó là mình được giải thoát.
Mục đích mình hiểu được nhân quả như vậy để tâm mình bất động không đau khổ thì sự hiểu biết đó là tri kiến giải thoát.
Cho nên, có người hỏi Thầy tri kiến giải thoát là cái gì? Là một sự hiểu biết mà làm cho tâm mình không dao động, làm cho tâm mình không đau khổ. Đó là sự hiểu biết của ý thức của chúng ta, chứ không có gì, đó gọi là Tuệ. Cho nên gọi là tri kiến giải thoát, sự hiểu biết giải thoát đó là danh từ trong kinh điển.
...
Nhiều khi cái nhân quả mấy còn hiểu nó rộng rãi, mênh mông mà không cô đọng lại để vào một cái đề tài để quán xả tâm mình. Cho nên Thầy muốn các con phải có một tri kiến hiểu biết về nhân quả rất thâm sâu, nhu nhuyến, nhuần nhuyễn để khi gặp ác pháp thì nội cái tri kiến nhân quả nó đã đủ sức giữ gìn, bảo vệ tâm mấy con không còn giao động một chút nào nữa, mà khi tâm không còn giao động trước các ác pháp thì đó là chánh tri kiến.
Cho nên lớp hôm nay mấy con học là cái lớp Chánh tri kiến tức là Chánh kiến. Nếu mà không có hướng dẫn cho mấy con học và tập luyện nhu nhuyễn được cái kiến thức để hiểu biết làm cho mấy con được giải thoát thì không bao giờ mấy con có Chánh tri kiến. Nhưng mà, Chánh tri kiến tức là Tri kiến giải thoát chứ không có gì khác, cái sự hiểu biết giải thoát, nói dễ hiểu đó là sự hiểu biết giải thoát, mà sự hiểu biết giải thoát như thật thì phải hiểu biết nhân quả.
Cho nên, từ cái trừu tượng của nhân quả cho đến cái thực tế của nhân quả chúng ta phải nắm cho vững, vì trừu tượng nhưng mà trừu tượng thật sự là có thật chứ không phải không có thật. Ví dụ như nếu mà không có mưa nắng, khí hậu thì làm sao có cây cỏ mọc, mà không có cây cỏ mọc thì làm sao có loài động vật được.
Loài động vật sinh ra phải có vật thực nó sống thì nó mới sống, cũng như sinh ra đến con người thì phải có những thực phẩm để con người ăn thì nó mới sống được, nó mới sinh ra, còn không có thì làm sao sinh được. Cho nên, chúng ta phải thấy cái quy luật của nhân quả là quy luật từ chỗ môi trường chết, nó sẽ lần lượt nó trở thành môi trường sống.
Thầy đặt ra một vấn đề, mấy con thấy như hiện giờ khoa học người ta thám hiểm cung trăng, người ta thấy rõ ràng nơi đó là chết, không có cây cỏ, không có gì, chỉ có đất đá mà thôi nhưng ở đó có sự hoạt động, có sự động chứ không phải không có sự động. Nhưng một triệu năm, hai triệu năm sau hay hoặc nhiều hơn nữa thì cung trăng sẽ trở thành môi trường sống như hành tinh chúng ta. Cái sống đầu tiên là rong rêu, thì mới cây cỏ, rồi kế đó cái sống của động vật. Vì nhờ rong rêu, cây cỏ mà loài động vật mới sống được, còn những cái chất khác nó làm cho môi trường thêm cái duyên của nó màu mỡ, cho nên những cây cỏ nhờ ăn những chất màu mỡ đó mà sống.
Ví dụ như, cái cây cỏ nó để lại cái lá, cái cây của nó rồi nó thành một cái chất màu mỡ cho cái cây cỏ khác mà nảy sinh ra phù hợp với loại cây đó thì cái loài cỏ cây đó sinh ra. Cũng chẳng hạn, như bây giờ trong môi trường sống của chúng ta, nếu mà chúng ta cho thêm một chất độc nào hoặc một chất không độc nào, từ trường nào thì trong môi trường sống của chúng ta sẽ nảy sinh ra một loài vật hoặc một loài cây cỏ mà cái loài cây cỏ rất là ngon ngọt, hái ăn được, đó là không độc, đó là chúng ta thảy ra hoặc ném vào một loài thuốc gì đó làm cho những cây cỏ lên chúng ta ăn nó ngọt như đường thì đó là những loài mà chúng ta ươm vào trong môi trường sống đó mà nó sinh ra những loài cây cỏ đó.
Trước đây 50 năm thì Thầy không thấy loài cỏ đó mà hôm nay Thầy lại thấy có loài cỏ đó. Nghĩa là lúc Thầy biết được, Thầy sanh ra Thầy biết được, cách đây hơn năm chục năm thì mảnh đất của Thầy ở đây Thầy không thấy cái loài cỏ đó, mà hôm nay nó lại sinh ra loài cỏ đó thì nó không phải từ đâu đến mà từ môi trường sống sinh ra, nó hợp duyên nó tạo ra.
Cho nên, nó có những cây cỏ lạ, mà có những cây cỏ xưa kia mọc mà bây giờ đã mất, đang mất. Chúng ta không lưu ý, chứ chúng ta lưu ý bởi vì môi trường của loài cây đó nó không thể sống được trong môi trường của thời tiết này nữa cho nên cây cỏ đó bị mất.
Còn tại sao con người chúng ta lại sống được? Vì con người chúng ta thích nghi được, thích nghi theo từng thời tiết. Cho nên, vì sự cái thích nghi đó mà gặp những thời tiết quá ô nhiễm cho nên nó sinh ra nhiều bệnh tật rồi có khi cái người mà thích nghi được thì sống, cái người mà không thích nghi được thì phải chết. Đó thì mấy con thấy đó là nhân quả.
Thầy giải thích, để sau này khi mấy con làm bài luận về nhân quả thời tiết, hay là thiên nhiên, thì mấy con sẽ đi đến chỗ này. Còn nhiều chỗ mà mấy con chưa hiểu, chưa thấy được bởi vì trong mấy con chưa có đủ trí tuệ Tam Minh, chưa nhìn được không gian và thời gian, do đó nhìn suốt nhân quả không thấy được. Tại vì như thế nào?
Thầy ví dụ, như con thấy một con kiến bò trên mặt nền nhà của chúng ta thì mấy con chưa thấy suốt được nhân quả của nó, chưa thấy suốt được nhân quả của nó thì các con chưa biết kiếp trước nó là ai có phải vậy không. Do đó mấy con thấy bằng mắt, nhìn nó bằng mắt thấy nó chỉ là con kiến mà thôi. Nhưng sự thật ra, nó thành ra con kiến, nó do cái nghiệp lực nào, của ai, ở cái thời điểm nào mà hiện giờ nó là con kiến. Cho nên, khi một người có đôi mắt Tam Minh thì người ta nhìn suốt qua cái lớp nghiệp tức là nhân quả đó mấy con cho nên người ta thấy rõ.
Còn mình, thì dựa theo cái chỗ luận, nhưng mà luận làm sao có khoa học để người ta tin có nhân quả thật, chứ nếu không người ta cũng không tin. Nhiều khi người ta nói đó là tự nhiên thôi, có hạt thì nó phải lên cây ra cái quả, đó là tự nhiên. Sự thật mình muốn dẫn chứng từ cái nhân, cái quả, để rồi tuần tự đến những cái hành động của mọi động vật, của chúng ta, cho đến những hành động của thời tiết nắng, mưa, gió, bão. Những cái rung động đó nó sẽ tạo thành những duyên hợp và nó trùng trùng duyên hợp để từ đó vạn vật khởi sinh ra nhiều loại, nhiều thứ trên môi trường sống.
Hôm nay, mấy con hiểu được, thì qua bài luận này Thầy sẽ đọc và Thầy sẽ góp ý thêm nếu mà còn thiếu, Thầy sẽ góp ý thêm. Còn cái bài mà luận mà đúng, hay không thiếu thì Thầy sẽ cho cái bài này tạm đủ, luận như vậy là không thiếu không thừa, còn thiếu gì Thầy thêm. Ví dụ thiếu kết luận thì Thầy bảo kết luận của sự hiểu biết này trong cái bài này và đồng thời Thầy sẽ cho bài kế tiếp. Và từ những cái bài như thế này, Thầy sẽ sắp xếp mấy con vào các lớp để mấy con đúng với đặc tướng, đúng với khả năng của mình để cho mình có sự quán tư duy, suy nghĩ để làm những bài kế tiếp sau được đầy đủ, trọn vẹn và luôn luôn có được sự tiến bộ triển khai được tri kiến của mình, càng lúc tri kiến càng hiểu, hiểu một cách đúng đắn, hiểu một cách không có mông lung, hiểu một cách ngay. Khi mà ác pháp tác đến là hiểu ngay liền không còn bị lệch lạc của sự hiểu biết đó nữa làm tâm chúng ta bất động trước các ác pháp.
Bởi vì, cái định này, cái phương pháp mà tu để tâm mình được an ổn thì gọi là Định Vô Lậu. Cuộc đời tu hành của chúng ta vốn tu để tâm không còn lậu hoặc tức là tâm không còn tham, sân, si. Mà cái phương pháp làm cho chúng ta không còn tham, sân, si, nếu chúng ta không tập luyện, không rèn luyện cho nhu nhuyễn, thuần thục thì làm sao chúng ta được giải thoát? Cho nên, chúng ta tu tập cái pháp này rất nhiều, rất nhiều, tu không thể ít được, buộc lòng chúng ta phải rèn luyện triển khai tri kiến chúng ta hằng ngày. Nghĩa là chúng ta tu pháp gì thì pháp nhưng mỗi ngày ít ra chúng ta phải dành ra một tiếng để tư duy, suy nghĩ về những để tài. Bắt đầu bây giờ nói nhân quả, nhưng ngày mai các con sẽ học qua những đề tài nhân quả này xong thì các con sẽ học những đề tài khác như: thân vô thường, các pháp vô thường, thời tiết vô thường, tất cả những điều kiện mà chúng ta cần thấy sự vô thường của các pháp. Rồi mấy con sẽ học đến thân ngũ uẩn, phải quán thân ngũ uẩn bất tịnh, phải quán thân ngũ uẩn vô thường, phải quán thân ngũ uẩn nhân quả. Rồi mấy con phải quán thập nhị nhân duyên: thập nhị nhân duyên của nhân quả, thập nhị nhân duyên của thân các con.
Do đó, các con còn đi sâu bởi vì Định Vô Lậu làm cho tâm các con phải có sự hiểu biết vô lậu cho nên các con phải học rất nhiều. Như thập thất kiết sử các con cũng phải quán, cũng phải hiểu, rồi thân ngũ uẩn này, rồi nhân quả này, rồi bất tịnh này, rồi thực phẩm bất tịnh này. Tất cả những điều đó mấy con đều được làm thành những bài quán để cho tri kiến của các con rất thâm sâu tất cả những cái phương pháp, làm cho mấy con có hiểu biết như thật để mà được giải thoát. Những bài mà Phật dạy trong kinh đều hoàn toàn như thật, không có bài nào trừu tượng. Mục đích nó phải thấy như thật mới gọi là chánh kiến, chánh tư duy, chứ không thấy như thật thì không thể nào là Chánh kiến, Chánh tư duy được.
Mục đích là từ chỗ mình không hiểu mình cố gắng mình triển khai, từ chỗ không hiểu mình cố gắng học tập để cho mình hiểu. Từ cái huân của kinh sách, của những người khác hiểu, như mấy con đọc sách đọc kinh mấy con hiểu một phần nào, nhưng mấy con còn triển khai qua kinh nghiệm bản thân của mình. Từ khi mình tiếp xúc với mọi vật, mọi sự kiện mà nó xảy ra trong tâm mình, lúc buồn phiền, lúc vui đều là có những đề tài chúng ta quán nhân quả tất cả, không có đề tài nào là không có nhân quả trong đó. Bởi vì, chúng ta sinh ra trong nhân quả, sống trong nhân quả, chết trong nhân quả, dù là thập nhị nhân duyên, dù là thân ngũ uẩn, dù là thập thất kiết sử. Tất cả mọi cái đều quay cuồng trong quy luật của nhân quả, cho nên bài nhân quả là bài đầu tiên, để sau đó mỗi bài khác chúng ta đều thấy nó quay cuồng trong nhân quả. Từ đó truy ra nó là một sự thật, sự thật của môi trường sống, sự thật của kiếp người chúng ta, khi sinh ra đã mang lấy những nỗi đau khổ đó.
Hôm nay các con đã hiểu biết về cái phần của Định Vô Lậu, nó là một phương pháp rất quan trọng của Đạo Phật. Khi mà chúng ta tu Tứ Chánh Cần thì chúng ta có 4 pháp:
• Pháp thứ nhất thì chúng ta thấy Đức Phật dạy chúng ta Chánh niệm tỉnh giác tức là đi kinh hành như Thầy dạy hôm qua mấy con thấy. Chánh niệm Tỉnh giác có 4 cách đi kinh hành.
• Rồi dạy chúng ta Định niệm hơi thở. Thì các con thấy đó là Định niệm hơi thở có từ cái hơi thở (từ bài Xuất tức, nhập tức tức là bài dạy về hơi thở), có 16 đề mục. Thân hành niệm có 2 đề mục. Giới của Sadi dạy cho La Hầu La thì thêm 1 đề tài nữa. Tức là 19 đề mục của Định niệm hơi thở.
• Đồng thời Đức Phật dạy lại cho chúng ta Định Vô Lậu và Định Sáng Suốt. Đó là 4 loại định mà đầu tiên chúng ta tu tập. Nhưng Định Sáng Suốt chỉ là sự nghỉ ngơi sau những lúc chúng ta tập các pháp, như tập thân hành niệm, tập định niệm hơi thở, tập chánh niệm tỉnh giác, hoặc tập Định Vô Lậu, rồi sau đó tập định thư giãn tức là nghỉ ngơi.
Cho nên, trong 4 loại định này thì cái định quan trọng nhất ở trong 4 phương pháp tu tập này ngăn ác diệt ác pháp để sinh thiện tăng trưởng thiện đó là Định Vô Lậu, vì vô lậu tức là ngăn và diệt tất cả ác pháp. Rất là quan trọng. Nó là một phương pháp và một đề tài mà tu tập cho người tu để được giải thoát, để được mục đích chứng được đạo quả A la hán thì người đó là người phải tu Định Vô Lậu. Ngoài Định Vô Lậu tu thì chúng ta sẽ bị ức chế tâm. Nếu chúng ta tu Định niệm hơi thở không khéo thì chúng ta cũng sẽ bị ức chế tâm. Nếu chúng ta tu Chánh niệm tỉnh giác không khéo thì chúng ta cũng bị ức chế tâm. Trừ ra có Định Vô Lậu là không bị ức chế tâm, vì triển khai sự hiểu biết của chúng ta để từ hiểu biết đó mà làm chủ xả được tâm chúng ta. Cho nên chúng ta không còn phiền não, không còn khổ đau, không còn ham muốn, không còn giận hờn, không còn si mê, thì đó là Định Vô Lậu. Cho nên Định Vô Lậu rất là quan trọng.
Một người có sự hiểu biết về nhân quả mà không xả được tâm là người đó chưa hiểu nhân quả, chưa hiểu nhân quả. Cho nên vì có sự hiểu biết mà chưa nhu nhuyễn, chưa thấm nhuần. Như khi các con làm bài luận cho Thầy, viết nó rất đúng không sai chút nào mà sao thấy tâm con không xả được, mỗi lần có ác pháp thì con có phiền não. Thì tự hỏi mình có hiểu biết nhưng có thấm nhuần được cái này chưa? Mà chưa thấm nhuần thì cách thức để mà tu tập Định Vô Lậu tức là làm cho nó nhu nhuyễn, thấm nhuần được cái lý nhân quả, cái lý của Định Vô Lậu là chúng ta xả tâm mình mới dễ dàng. Do đó muốn thấm nhuần, thì hiện giờ, thay vì một người học trò họ phải học cho thuộc lòng một cái bài như thế này để rồi trả bài cho một ông Thầy giáo. Sau khi họ trả bài rồi, dù như thế nào họ đã học thuộc thì chắc chắn nó cũng phải nhớ trong lòng họ, dù năm năm, mười năm sau họ cũng còn nhớ chứ không phải quên, gọi là người học trò học thuộc bài. Còn người không học thuộc bài là người đó chưa thấm nhuần được bài đó.
Mục đích của chúng ta ở đây làm cái bài, rồi từ đó chúng ta học cái bài, hằng ngày đọc tới đọc lui để thấm nhuần cái lý nhân quả để từ đó các ác pháp tác động, thì khi chúng ta thấm nhuần thì chúng ta sẽ dễ dàng xả tâm mình.
Ví dụ như Thầy nói như thế này mấy con thấy, bởi vì chương trình giáo dục đào tạo của Đạo Phật giúp cho tâm chúng ta vô lậu với Chương trình giáo dục của Bộ Giáo Dục dạy chúng ta học chữ cũng giống nhau, nó không khác. Thầy dạy các con làm toán mà các con không thuộc Cửu chương thì làm sao các con làm toán được, có phải không? Không thuộc Cửu chương làm toán nhân được mấy con. Cho nên buộc mấy con phải làm toán nhân. Khi Thầy nhớ lúc nhỏ Thầy học cửu chương, ông Thầy ổng dò cửu chương, bắt từ đầu đến cuối bảng cửu chương Thầy đọc vanh vách, nhưng mà hỏi bắt dọc bắt ngang thì nhiều khi Thầy hổng có nhớ, các con hiểu không? Mà khi một đứa học trò mà thấm nhuần được Bảng cửu chương hỏi đâu nó trả lời đó, không bao giờ trả lời sai. Vì vậy mà khi chúng ta tu Định Vô Lậu nó phải thấm nhuần như học Bảng cửu chương. Để làm gì? Ác pháp nó tác động vào chúng ta không phải lựa nữa, nó tác động vào biết ngay liền để mà xả tâm, gọi là thấm nhuần được Định Vô Lậu. Nói Vô Lậu thực sự mà phải thấm nhuần bằng tri kiến của chúng ta.
Cho nên, hôm nay lớp học này, buộc lòng mấy biết tự mình triển khai cái hiểu biết của mình ra. Rồi bắt đầu từ đó mấy con sẽ thấm nhuần bằng sự đọc đi đọc lại rất nhiều lần, tức là quán. Các con nghe nói Định Vô Lậu hay là thiền quán không? Quán tức là tư duy, suy nghĩ, quán xét làm cho thấm nhuần được cái điều đó gọi là thiền quán. Cho nên Định Vô Lậu thì chúng ta phải hiểu nó là thiền quán, để Tâm Bất Động. Mà Tâm Bất Động thì có danh từ Đức Phật nói Bất Động Tâm Định, hay là có cái tên nữa, cái tên của Bất Động Tâm Định gọi là Vô Tướng Tâm Định. Nó không còn cái tướng dục lậu, hữu lậu, vô minh lậu cho nên gọi là Vô Tướng Tâm Định.
Như vậy mấy con hiểu rằng Đạo Phật dạy chúng ta rất rõ ràng nhưng tại sao chúng ta không giải thoát? Là tại vì chúng ta tu không thấm nhuần, không nhu nhuyễn. Cho nên đức Đức Phật nói : “Tâm định tĩnh nhu nhuyễn dễ sử dụng”. Khi tri kiến chúng ta nhu nhuyễn dễ sử dụng thì chúng ta sẽ chuyển hóa tất cả những nỗi khổ đau trong thân tâm chúng ta. Các con thấy rõ, như bây giờ mình chưa nhu nhuyễn, chưa dễ sử dụng thì mình đâu có làm sao mà khỏi sự phiền não, khỏi sự đau khổ khi ác pháp tác động vào.
Cho nên sự tu tập là sự phải rèn luyện, tập luyện nhu nhuyễn, đúng cách. Mà đúng cách là như thế nào? Là phải làm những bài như thế này. Ngày nào tới giờ các con thấy người học chữ thì người ta có làm bài, nhưng làm bài để người ta tiến tới học văn, viết văn này kia. Còn chúng ta học là để mục đích chúng ta là mọi ác pháp tác động vào sự hiểu biết đó nó sẽ làm chúng ta bất động, không còn dao động nữa.
Cho nên hôm nay thì mấy con được Thầy sắp xếp từng trình độ, mấy con không hiểu biết không có nghĩa là mấy con dở. Mấy con cứ nghĩ rằng mình đi học mà, mình đi tu mà, chỗ không biết mình sẽ học và mình biết. Đừng có nghĩ rằng Thầy sắp xếp cái lớp của mấy con vào cái lớp để mấy con vào học, mấy con đừng có mặc cảm. Mình dở thì mình cứ học cái lớp căn bản được giảng, giải thích rõ ràng rồi từ đó mình ghi nhớ được những gì mình đã học, mình lại viết ra. Mỗi lần mình viết ra là mình thuộc thêm một mớ, mình hiểu thêm một mớ. Và cố gắng như vậy rèn luyện mình trong một năm, Thầy nghĩ rằng cái Định Vô Lậu mà các con học một năm thì tâm mấy con sẽ được giải thoát, không còn khổ đau. Bởi vì các con quá thông rồi. Ráng cố gắng mà học tập.
Thầy nghĩ rằng cái lớp này là cái lớp đi đến chỗ sự thật, chúng ta phải thấy sự giải thoát thật sự, chớ không phải là nói mà không giải thoát. Cho nên phải ráng học và phải ráng siêng năng làm bài, và phải tập tỉnh thức, phải tập Chánh niệm tĩnh giác. Là vì chúng ta biết đêm chúng ta còn có sự thiếu tĩnh giác, nếu không tập đi kinh hành thì chúng ta sẽ bị hôn trầm, thùy miên làm chúng ta mờ mịt và sự mờ mịt đó làm chúng ta không định tĩnh.
Nghe danh từ Đức Phật dạy: “Tâm định tĩnh nhu nhuyễn dễ sử dụng”, mà chúng ta không chịu tập chánh niệm tĩnh giác thì làm sao định tĩnh? Vì vậy phương pháp mà chúng ta đi kinh hành, 4 giai đoạn đi kinh hành là tập chúng ta định tĩnh. Người nào cứ nghĩ rằng tôi tập Định Vô Lậu là sẽ giải thoát, nhưng mấy con thiếu định tĩnh thì mấy con sẽ bị mờ mịt liền tức khắc mà không còn đủ tri kiến để đương đầu với ác pháp. Còn trái lại, mấy con có sức định tĩnh nhưng mấy con không đủ tri kiến giải thoát thì mấy con sẽ bị ức chế tâm. Cho nên Đức Phật ghép lại những từ để chỉ cho chúng ta cái tâm của chúng ra được giải thoát, thì Đức Phật nói: “Tâm định tĩnh nhu nhuyễn dễ sử dụng”. Khi nó định tĩnh, nhu nhuyến, dễ sử dụng, tức là nó đầy đủ cả Chánh niệm tĩnh giác và Định Vô Lậu thì nó mới đủ sức để đương đầu với ác pháp, nó mới hóa giải được tâm của chúng ta.
...
Bài ghi chép pháp âm lớp Chánh kiến, thuộc văn nói - Trưởng lão Thích Thông Lạc giảng, do nhóm Phật tử Chân Như thực hiện. Quý bạn quan tâm kính nghe pháp âm theo liên kết: https://thuvienthaythonglac.net/…/004-lck-002a-nu-tu-duy-nh…