Siddhartha Gautama Buddha – Học thuyết nhân cách theo Phật học (566 – 486 tcn)

Siddhartha Gautama Buddha
1. Tiểu sử Đức Phật

Ngày xưa có một vương quốc nhỏ bé bây giờ gọi là Nepal được cai trị một bộ tộc có tên là Thích Ca (Shakyas). Tộc trưởng của bộ tộc này cũng là vua của đất nước. Tên ông là Tịnh Phạn (Shud– dodana Gautama).

Vợ của ông, hoàng hậu Ma–Gia (Mahamaya), trong lúc sắp sinh người con đầu lòng đang nương náu tại một thành nhỏ thuộc khu vực Lâm Tì Ni (Lumbini). Bà đã yêu cầu các nữ hầu giúp mình đến một lùm cây để sinh cho kín đáo và bà đã sinh ra một bé trai. Bà mẹ đã đặt tên con trai Tất Đạt Đa (Siddhartha), có nghĩa là: Người sẽ đạt được mục đích của mình. Thật đáng buồn, hoàng hậu Ma– Gia đã từ trần 7 ngày sau khi sinh con xong. Cậu bé Tất Đạt Đa sau đó được người bà dì, chị gái của mẹ mình là Ma–ha–ba–xà–ba–đề (Mahaprajapati) nuôi dưỡng.

Khi chàng hoàng tử ấy lớn lên và đến tuổi lấy vợ, chàng đã trao trái tim của mình cho công chúa Gia–du–đa–la (Yashodhara) và họ cưới nhau khi cả hai vừa tròn 16 tuổi.

Chàng trai Tất Đạt Đa được nuôi lớn lên luân phiên tại 3 lâu đài hoàng cung và được ngăn cản không cho chứng kiến những gì mà người dân thường vẫn phải đối diện hàng ngày. Không ai cho chàng nhìn thấy những ông bà già, những con người bệnh tật, những con người bị chết. Cha của ông đã ra lệnh không cho ông được biết bất cứ một nhà tu hay những ai có đời sống tâm linh khổ hạnh. Tất Đạt Đa vì thế trở nên rất bức xúc và hiếu kỳ về những gì xảy ra bên ngoài bốn bức tường của những tòa lâu đài hoàng cung. Sau cùng chàng quyết liệt yêu cầu được nhìn thấy những con người đang sống trên vương quốc của mình.

Hoàng đế cha ruột của chàng trai đã hết sức cẩn thận trong việc thu xếp không cho con trai nhìn thấy những cảnh đau khổ vì sợ con trai có thể sẽ hướng đến đời sống tu trì. Cuối cùng những cố gắng của người cha vẫn thất bại, chàng trai đã nhìn thấy những người già lếch thếch, những con người bệnh tật gầy guộc, ghẻ lở. Chàng nhìn thấy cả những xác chết, cùng với những tiếng than khóc Chàng đã hỏi một người bạn tâm phúc của mình tên Xa–nặc (Chandaka) tất cả ý nghĩa của những điều chàng nhìn thấy. Người bạn đã kể lại tất cả những sự thật vốn rất đơn giản bình thường mà đáng lẽ ra Tất Đạt Đa đã nên biết từ rất lâu: Mọi người sẽ già đi rồi sẽ ngã bệnh và sau cùng là cái chết.

Tất Đạt Đa còn trông thấy một nhà khổ tu, người đã khấn sẽ từ bỏ không bao giờ ăn thịt nữa. Khuôn mặt thanh thản và bình lặng của vị chân tu khổ hạnh kia cứ ám ảnh vị hoàng tử trẻ mãi. Sau cùng chàng nói về kinh nghiệm ấy: Khi những con người vô tâm trông thấy người già và kẻ bệnh tật thì họ khinh thường, ghê tởm và sợ hãi, ngay cả việc sau này họ cũng sẽ trở nên già lão và bệnh tật. Tôi đã nghĩ với chính mình rằng: Tôi không muốn mình như những kẻ vô tâm. Sau đó tôi không còn những cảm xúc về sự cám dỗ của xác thịt của tuổi trẻ nữa.

Năm lên 29 tuổi, Tất Đạt Đa bắt đầu nhận ra rằng mình không thể sống hạnh phúc như ông đã từng sống trước đó. Ông bắt đầu muốn tìm hiểu về cách con người có thể vượt qua những nỗi đau khổ - đây là đam mê mãnh liệt hơn cứ điều gì khác. Sau khi lén hôn lên gương mặt người vợ đang ngủ rất say và đứa con vừa mới sinh xong tên là La–hầu–la (Rahula), vị vua tương lai đã lẳng lặng lén rời bỏ hoàng cung và đi lên những cánh rừng phía bắc Ấn Độ.

Ở đó ông bắt đầu cuộc đời lảng tránh những dục vọng đam mê trần thế và tự thánh hóa bản thân mình trong 1 nhóm gồm 5 người tu trì khổ hạnh. Ông thực hiên đời sống ấy được 6 năm. Đời sống giản dị chân thành và sự chuyên tâm của ông đã loan truyền đến 5 người tu hành khổ hạnh, cuối cùng họ đã trở thành những đồ đệ của ông. Tuy nhiên câu hỏi của ông vẫn không có câu trả lời. Vì thế ông quyết định tăng gấp đôi những nỗ lực cố gắng của mình, từ chối thức ăn và nước uống, cho đến khi ông rơi vào tình trạng trên bờ vực cận kề với cái chết.

Trong vòng 6 năm, ông bắt đầu cuộc đời khổ hạnh, chỉ ăn những gì ông tìm thấy trên mặt đất và uống nước mưa. Ông chỉ mặc độc một cái khố. Khi không tìm ra câu trả lời, ông càng quyết tâm cố gắng nhiều hơn nữa. Nhưng Tất Đạt Đa chợt nhận ra những phương thế khổ hạnh sẽ chẳng dẫn đến đâu cả và ông tin có thể tìm ra một điểm trung gian giữa đời sống xa hoa và đời sống thánh hóa nghiêm ngặt. Đi ra phía ngoại thành Bodh Gaya, Tất Đạt Đa quyết định ngồi dưới một gốc cây bồ đề tịnh tâm thật lâu cho đến khi nào ông tìm ra câu trả lời cho mình. Ông ngồi đó trong nhiều ngày, ban đầu là tập trung thật sâu vào việc dọn sạch những tư tưởng trong đầu để không còn bị chi phối chia trí và sau đó là thiền định, cố gắng mở mình ra với sự thật. Vào một đêm trăng rằm tháng năm, khi ngôi sao hôm vừa mọc, Tất Đạt Đa cuối cùng hiểu ra câu trả lời cho vấn đề của nguồn gốc sự đau khổ và trở thành Phật, có nghĩa là người đã tỉnh thức.

Tại công viên Con nai Saruath gần Benares, khoảng chừng 100 dặm cách Bodh Gaya, ông đã giảng đạo lần dầu tiên trong đó, ông huấn dạy về Tứ diệu và Bát đạo. Vua Magadha nghe được lời của Phật nên đã cho Phật quyền sử dụng dòng tu trong suốt mùa mưa. Cộng với nhiều sự lạc quyên đóng góp đã cho phép cộng đồng những đồ đệ mới được thành lập và hoạt động trong suốt nhiều năm, tạo điều kiện cho nhiều người có cơ hội được nghe Phật thuyết pháp.

Người dì và bà vợ của ông sau này cũng xin được xuất gia vào ở trong cộng đồng những người tu hành vốn chỉ có những người tu sĩ nam. Văn hóa lúc bấy giờ coi người phụ nữ rất thấp và việc cho phép phụ nữ được tham gia cộng đồng người đi tu sẽ làm suy yếu đi những giá trị truyền thống. Nhưng Đức Phật rất từ bi, vì thế ngài đã cho phép người dì và vợ của ông là những nữ tu Phật giáo đầu tiên được chính thức qui y.

Phật đã nói rằng, địa vị thân phận của một người, hay những điều kiện bản thân và gia đình sẽ chẳng có ý nghĩa gì. Tất cả đều có khả năng được khai thị và tất cả mọi người đều được gia nhập vào hàng ngũ người tu hành. Theo Phật, anh em Phật tử được phân thứ bậc bởi thời gian quy y. Ví dụ, vị chân tu Phật giáo đầu tiên là Upadi, vốn là một người thợ cắt tóc, nhưng ông được coi là bậc đại sư lớn hơn các nhà sư xuất thân từ hoàng tộc là các vị vua, đơn giản chỉ vì người thợ cắt tóc này là người đã qui y sớm hơn.

Phật đã đạt được cảnh giới khai thị vào độ tuổi 35. Ngài đã tiếp tục thuyếp pháp khắp vùng Bắc Ấn Độ trong vòng suốt 45 năm. Khi Phật được 80 tuổi, Ngài đã trải qua một lần ngồi thiền rất sâu dưới gốc cây sasa và rồi qua đời. Những lời huấn dạy sau cùng của Ngài là:

Mọi tạo vật đều là hữu hạn,

Hãy phấn đấu với ý thức giác ngộ.

Ngay sau khi đức Phật tịch viên, 500 vị thầy tu đã họp khóa đầu tiên tại Rajagrha, dưới sự chủ trì của Kashyapa. Upadi đã đọc bản nội quy đời sống tu hành (monastic code) còn được gọi là Vi– naya từ trí nhớ của mình. Ananda, một người anh em họ của Phật và cũng là một người bạn, một đồ đệ mà Phật rất thương mến – là người có trí nhớ siêu phàm - đã nhắc lại các bài giảng của Phật (the Sutras). Các thầy tu liền họp và biểu quyết để có một hệ thống bài kinh cuối cùng. Sau đó được các thầy tu học thuộc lòng, từ đó Kinh Phật được dịch thuật ra nhiều tiếng nói ở khắp Ấn Độ. Và như thế đạo Phật đã tồn tại trong bối cảnh truyền miệng hơn 200 năm.

Vài thế kỷ sau, toàn bộ hệ thống giáo lý hợp nhất tiên khởi bắt đầu phân chia những bộ phận khác nhau. Sự tách rời lớn nhất bắt đầu vào công đồng nhóm họp lần thứ 2 tại Vaishali, sau công đồng lần thứ nhất cách đó khoảng 100 năm. Tại công đồng lần thứ 2, hai nhóm tự do và nhóm truyền thống đã gặp nhau. Nhóm Tự do sau Công đồng thứ 2 đã trở về và tự gọi là phái Phật giáo Đại Thừa và phát triển rất mạnh ở bắc Châu Á. Nhóm Truyền thống được gọi là phái Phật giáo tiểu Thừa, có nghĩa đi theo đường lối của những bậc tiền bối vốn phát triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á.

2. Học thuyết nhân cách của Phật

Phật giáo là một triết lý thực nghiệm. Phật đã nói rất rõ ràng chúng ta nên đánh giá sự thật của tất cả mọi triết lý bằng chính kết quả của nó. Trong Kinh Kalanla, ngài đã vạch ra rất rõ:

Ta có thể được phép hoài nghi…

Ta có quyền không chắc chắn…

Đừng đi theo những gì đã được khẳng định là nghe lời nhắc lại,

Đừng đi theo truyền thống,

Đừng tin theo lời đồn đại,

Và những điều chép trong các sách,

Từ những điều suy đoán

Đừng tin theo những lời nói khôn ngoan thông thái

Hay những lý luận hấp dẫn

Và từ những tư tưởng thiên vị đầy cân nhắc

Hay từ khả năng thuyết phục của người khác

Và từ những cân nhắc đắn đo

Người tu hành là những vị thầy dạy của chúng ta.

Bạn đang nghĩ gì khi đọc những lời này? Lòng tham sân si tồn tại trong một con người liệu có đem lại cho ta điều lợi lộc hay sự độc hại? Ảo tưởng sẽ đem lại điều tốt hay điều xấu cho một con người? Người có tâm hồn tham lam, thù hận, đầy ảo tường, bị khuất phục và bị khống chế hoàn toàn bởi tham lam, thù hận và ảo tưởng sẽ dễ chìm đắm vào giết người, ngoại tình, gian dối sẽ dẫn vào những tội lỗi khác hủy hoại anh ta.

Ngài dạy tiếp:

Khi chính các ngươi hiểu ra: Đây là những điều xấu, là những điều đáng khiển trách, là những điều được các bậc khôn ngoan cản ngăn. Những điều này sẽ dẫn đến tai họa và đau khổ, hãy từ bỏ chúng.

Đạo Phật là một triết lý tách hẳn những đánh giá thuộc phạm trù thần học: Đức Phật thật ra đã từ chối trả lời những câu hỏi có nội dung liên quan về sự tồn tại kinh cửu và đời sống kiếp sau. Cũng trong Kinh Kalama, Ngài đã nhận xét rằng, triết lý của Ngài về đời sống sau cái chết sẽ là:

Các đồ đệ, những ai là người không có tâm địa thù ghét, không có tâm hồn độc ác, một tâm hồn đồng trinh vô cấu và một tâm hồn trong sạch là những người có 4 điều thanh thản đã tìm thấy được ý nghĩa hiện sinh ngay nơi thế giới này.

Giá sử như có một kiếp sau và nếu như có hậu quả của những điều thiện và điều ác. Nếu làm điều thiện, khi chết đi thân xác ta sẽ tan rã sau khi chết, ta sẽ thoát xác và biến vào một thế giới thiên đàng, với những cảm giác hạnh phúc. Đây là sự an ủi thanh thản đầu tiên.

Giả sử như không có kiếp sau và không có hậu quả, không có kết quả của những việc làm xấu và tốt. Nhưng tại trong thế giới này, – với những giá trị hiện sinh – ở đây và trong lúc này, nếu ta giải phóng mình ra khỏi sự thù hận, tự do khỏi điều ác, tỉnh táo và thanh thản, hạnh phúc, bình an, ta sẽ muốn mình mãi như thế. Đây là sự an ủi thanh thản thứ hai.

Giả sử điều ác sẽ tạo ra nghiệp quả cho người làm ra điều ác. Như thế chúng ta có thể sẽ chẳng bao giờ làm điều gì ác cho ai cả. Và như thế chẳng có một kết quả độc ác nào sẽ xảy ra đối với ta – vì ta chẳng làm điều gì ác. Đây là sự an ủi thanh thản thứ ba.

Giả sử, làm ác nhưng chẳng bao giờ gặp điều ác. Như thế tôi sẽ nhìn thấy mình hoàn toàn an toàn vì chẳng có điều gì xấu xảy ra với tôi cả. Đây là sự an ủi thanh thản thứ bốn.

3. Cấu trúc của tâm hồn

Đức Phật mô tả con người như là một sinh thể được làm nên bởi Ngũ uẩn hay còn gọi là 5 bộ phận bao gồm:

1. Cơ thể, bao gồm những cơ quan giác quan

2. Cảm giác và cảm xúc, những phản ứng giữa các bộ phận giác quan cơ thể và những đối tượng xung quanh

3. Lăng kính và ý tưởng, nhất là những ý tưởng đến từ khả năng giác ngộ, nhận ra các vật thể và những ý tưởng khác

4. Hành vi tư tưởng, đặc biệt là sức mạnh của ý chí và sự tập trung cao độ

5. Những ý thức căn bản

Bốn bộ phận sau cùng gọi là naman, có nghĩa là tâm hồn. Khái niệm tên gọi hình thái trong Phật học là thuật ngữ chỉ ra con người bao gồm 2 phần: tâm thần và sinh lý qua danh từ anatman, có nghĩa là không có linh hồn và không có điểm trung tâm.

Ngoài ra trong Đạo Phật còn có 6 địa hạt gọi là lục căn, tác động chi phối Ngũ uẩn là thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác, xúc giác và tâm hồn, vốn là đại diện cho 6 đối tượng giác quan của con người.

Đạo Phật nhánh Đại Thừa còn giới thiệu khái niệm tàng thức, một mô hình ý thức chất sẵn trong nhà kho, vốn là một khái niệm được sử dụng ở học thuyết của Carl Jung và ông gọi là cõi ý thức tập thể vào khái niệm Ngũ uẩn. Tàng thức là những gì được chất chứa trong cõi ý thức đó được gọi là hạt giống, vốn là những xu hướng bẩm sinh giúp chúng ta nhìn thế giới qua những cách thức và kết quả đến từ lịch sử nghiệp quả của chúng ta.

Tất cả mọi nghiệp quả đã tạo lập từ quá khứ hay tạo lập trong hiện tại đều được tàng trữ trong tàng thức. Sự kết hợp giữa mạt na là bộ phận có chức năng lý luận của con người và bản ngã (cái tôi) sẽ dẫn đến tạo ra một ảo ảnh vốn là sự hiện diện của đời sống bình thường. Qua việc làm cho bản ngã của mình trở nên yên tịnh và càng giảm bớt trạng thái tập trung quá nhiều vào bản thân, tâm trí của ta sẽ nhận ra một hiện trạng trống rỗng của mọi sự. Lúc đó ta sẽ có sự bình an trong tâm hồn. Nói khác đi bình an chính là trạng thái không lệ thuộc bởi tất cả mọi sự câu nệ.

4. Tứ diệu

Tứ Diệu nghe có vẻ như là nền tảng căn bản của bất cứ học thuyết đặt nặng đến giá trị chức năng liệu pháp:

1. Đời sống là bể khổ: Đời sống là một chuỗi những đau khổ và đau khổ là một thực trạng không thể tránh khỏi trong đời sống của con người. Nếu ta có cảm giác, chúng ta sẽ cảm thấy đau. Nếu ta có cảm xúc, ta có thể cảm thấy buồn khổ, nếu ta có khả năng yêu thương, ta cũng có khả năng nếm phải đau đớn xót xa khi chia tay hay phản bội. Đấy là định nghĩa của đời sống.

Duhkha, theo tiếng Phạn có nghĩa là đau khổ được chuyển nghĩa thành căng thẳng, giận dữ và bất toàn. Đức Phật muốn con người hãy hiểu thấu nỗi đau như một nền tảng căn bản cho quá trình thăng tiến.

Chìa khóa để hiểu được trạng thái đau khổ là hiểu về tất cả, bao gồm cả những sinh thể, người thân yêu của chúng ta, bản thân chúng ta, tất cả đều là tạm thời. Vị trí đặc biệt của chúng ta có một sinh thể, vào ngày nào đó sẽ chết và đây chính là một mối lo lắng. Tuy nhiên đây cũng là động lực khiến cho ta có ý hướng đến những chọn lựa biến đời sống của chúng ta trở nên có ý nghĩa. Thời gian chỉ có ý nghĩa quan trọng chỉ khi ta có nó thật nhiều (nhưng đây là điều không tưởng). Vì thế làm việc thiện và yêu thương ai đó chỉ có ý nghĩa khi thời gian có một giới hạn. Nếu chúng ta cứ tiếp tục sống mãi và chẳng bao giờ chết, có lẽ chúng ta chẳng còn động cơ để làm đẹp cho cuộc sống và yêu thương con người.

Một chìa khóa khác có liên hệ đến đau khổ là anatman – có nghĩa là tất cả mọi vật, bao gồm cả chúng ta sẽ không bao giờ có linh hồn hay một chất liệu vĩnh cửu. Khi không có chất liệu, không điều gì có thể đứng vững một mình được và như thế không ai trong chúng ta có một sự hiện diện tách rời. Tất cả mỗi chúng ta đều liên đới và liên kết giao thoa, không chỉ với thế giới vật lý mà cả thế giới tinh thần nơi chúng ta đang sống và cả vũ trụ nữa.

2. Đau khổ hiện diện vì có sự ràng buộc lưu luyến: Chúng ta có thể nói rằng những đau khổ mà con người trải qua thật ra đã đến từ chính bản thân chúng ta, từ những đam mê đi tìm khoái lạc hạnh phúc, tình yêu, nhất là chúng ta muốn những giá trị nhục cảm này càng kéo dài càng tốt và muốn các nỗi đau, sự dằn vặt, sầu não biến mất khỏi đời sống chúng ta mãi mãi.

Chúng ta thường không từ chối những điều dễ chịu, khoái cảm nhục thể và chúng ta rất ít khi tin rằng những nỗi đau đến trong cuộc đời là tự mình làm khổ mình. Đây là điều mà Phật rất muốn lưu tâm chúng ta hãy chú ý đến: Nếu ta đã lấy một mũi tên và bắn mình thật đau, liệu ta có nên bắn mình thêm một lần nữa hay không

Ràng buộc được chuyển ngữ từ khái niệm trishna, có thể tạm dịch là sự khát, đam mê, quyến rũ, thèm khát, đeo đuổi những giá trị vật chất tạm bợ. Khi thúng ta không có khả năng nhận ra những đại lượng này là những giá trị tầm thường, tạm bợ, không quá quan trọng, chúng ta sẽ sống trong ảo tưởng cho rằng những đại lượng này là những giá trị hoàn hảo, lâu bền quan trọng thiết yếu. Và như thế chúng ta bị đánh lừa rằng khi được gắn bó đeo bám theo chúng, ta sẽ trở nên hoàn hảo, lâu bền và quan trọng.

Thường thì chúng ta thiếu một giá trị trung tâm hay một cấu trúc đã được thiết kế sẵn. Và vì nằm trong trạng thái hư vô, chúng ta rất khát khao có được những khái niệm định hình chắc chắn.. Vì thế ta chọn vật chất làm mô hình đại diện cho khái niệm định hình chắc chắn mà ta dễ nhận ra nhất. Chúng ta là những sinh thể dễ dao động, thường rơi vào vòng xoáy nên ta vẫn hay ước ao mình là tảng đá. Chúng ta mượn giá trị vật chất làm mỏ neo cho mình.

Chúng ta đeo bám vào vật chất với hy vọng rằng, chúng sẽ cung cấp cho chúng ta một trọng lượng nào đó. Chúng ta cố gắng chuyển đổi người thân yêu của mình thành những chủ thể ta sở hữu. Chúng ta yêu cầu họ không được thay đổi và chúng ta đòi hỏi ở nơi họ như những chủ thể đối tác hoàn hảo một cách tuyệt đối, song chúng ta không nhận ra rằng đấy là một bức tượng, tuy có thể tồn tại mãi, nhưng thật ra đã không cung cấp cho ta bất cứ một chút tình yêu nào.

Chúng ta cố gắng để mình trở thành bất tử, có thể bằng những niềm tin thúc đẩy vì lo lắng từ những câu chuyện thần thoại, hoặc bằng cách chúng ta muốn sinh ra con cái, để rồi con cái chúng ta tiếp tục công việc sinh sản và ta vẫn hiện diện ở đâu đó trong chuỗi liên hệ huyết thống ấy. Ví dụ, giống như quá trình chiết cành từ cây mẹ thành những cây con. Chúng ta muốn lưu lại dấu vết cuộc đời của mình qua sáng tạo và nghệ thuật. Chúng ta muốn mình được người khác nhớ mãi. Ít nhất chúng ta là những sinh thể rất sợ đối diện với thay đổi, nhất là sự thay đổi ấy bắt ta phải rời bỏ cái nôi êm ái an nhàn mà chúng ta đã quá quen thuộc. Thay đổi luôn là một tác nhân gây sợ đối với nhiều người trong chúng ta.

Một khía cạnh khác của ràng buộc lưu luyến là khái niệm dvesha, có nghĩa là lảng tránh và thù hận. Theo cách Đức Phật nghĩ, thù hận gần giống như đeo bám những ràng buộc quyến luyến. Chỉ khác là thù hận cho phép những giá trị tiêu cực những cơ hội làm khổ chúng ta một cách luẩn quẩn. Vì thế chúng ta đã trao quyền lực để làm cho chúng ta đau khổ nhiều thêm. Cuối cùng chúng ta trở nên sợ hãi, không phải vì sợ các tác nhân gây hại, mà chúng ta sợ những nỗi lo sợ của chính mình. Thù hận là trạng thái đeo bám vào nỗi sợ hãi và van xả là phản kháng lại qua những não thức hằn học.

Một điều chúng ta hiện nay đang lo sợ nhất trong thế kỷ này là những trào lưu công cộng rộng lớn, chẳng hạn như phát xít, khủng bố và những chủ thuyết tự do đột phá vào các giá trị tinh thần truyền thống. Có thể ta nghĩ mình chỉ là một ngọn gió thoảng và cách duy nhất để không bị cơn lốc hủy hoại mình là chủ động hòa nhập vào với cơn lốc. Cơn lốc là một thứ trọng lực khủng khiếp đã cuốn hút chúng ta. Đàng sau những trào lưu to lớn, ta nhận thấy có những trào lưu nhỏ bé hơn như những trào lưu xu thời về thể chế chính trị, các cuộc cách mạng văn hóa, ảnh hưởng của tôn giáo, chống lại tôn giáo… Tất nhiên đây chỉ là những sự kiện xã hội – nhưng sự thù hận đã biến chúng trở thành những giá trị và công cụ để chuyển tải thù hận và đối nghịch.

Một trạng thái khác của ràng buộc quyến luyến là avidya, có nghĩa là vô tâm. Ở một cấp độ, đó là một thái độ không ý thức được về Tứ Diệu, vốn là những giá trị mang tính chân lý. Ở cấp độ sâu hơn, vô tâm có nghĩa là chẳng nhìn thấy gì cả, không có khả năng cảm nghiệm thực tế một cách trực tiếp và thay vào đó là những diễn dịch của cá nhân. Và xa hơn, chúng ta tin vào lý giải cá nhân của mình nhiều hơn là tin vào bản chất sự thật.

Trong một số bài kinh, đức Phật còn đưa thêm một khía cạnh khác của ràng buộc lưu luyến là lo lắng. Sợ hãi – giống như thù hận - đã trói cột chúng ta vào những đại lượng vật chất và tinh thần có khả năng hãm hại chúng ta.

3. Đau khổ có thể dập tắt được: ít nhất đấy là những khổ đau mà chúng ta đã tạo ra, cộng thêm vào những đau khổ không thể nào tránh được. Hoặc nếu chúng ta biết tiết độ và kiềm chế những đam mê dục vọng của mình trong những cố gắng tranh thủ, những đau khổ của sân si vì thế sẽ được hóa giải. Với vài thập kỷ tập luyện, nhiều vị chân tu đã vượt qua được những nỗi đau đơn giản, rất trực tiếp và rất thực từ những điều kiện thể lý. Tất nhiên chúng ta là những người bình thường, không có cơ hội luyện tập hàng thập kỷ, vì thế những liệu pháp sẽ giúp chúng ta giải quyết được những nỗi đau tinh thần và những nỗi đau thể xác.

Niết bàn: Đây là một tên gọi truyền thống của trạng thái không còn hiện hữu nữa khi tất cả những đeo bám sân si, tất cả những đau khổ của chúng ta đã được xóa bỏ. Niết bàn thường được chuyển nghĩa thành thổi tắt, một ý tưởng như chúng ta đã thổi tắt một ngọn nến. Một cách hiểu khác về Niết bàn như quá trình thổi tắt ngọn lửa đang đe dọa tìm cách khuất phục chúng ta. Niết bàn có thể được ví như việc cắt đứt nguồn khí oxy đang nuôi ngọn lửa hừng hực cháy ấy. Bằng cách thổi tắt những cố gắng đeo bám, những thù hằn và những lần vô tâm cứng cỏi, chúng ta đã thổi tắt những đau khổ không cần thiết. Hay nói khác đi, Niết bàn chính là một chân dung của giải phóng và tự do.

4. Có một cách để dập tắt đau khổ. Đây chính là điều mà những nhà liệu pháp tin tưởng, bằng cách nghĩ riêng của mỗi người, và Đức Phật đã gọi đấy là Bát đạo.

5. Bát đạo

Bát đạo hay còn gọi là Bát chánh Đạo có mô hình giống như một chương trình liệu pháp có tính áp dụng rất cao, có thể được sử dụng với tất cả mọi người. Hai khái niệm đầu tiên của hệ thống Bát đạo được coi là phạm trù xây dựng trí thông minh:

1. Chánh kiến: Đây chính là khả năng hiểu biết về Tứ diệu, vốn là bốn chân lý, đặc biệt là hình thái tự nhiên của tất cả mọi vật đều là không hoàn hảo tuyệt đối, không bền vững muôn đời và không thật sự quá quan trọng. Phần nhiều chính chúng ta đã tự làm khổ mình do những hành vi mang tính đeo bám lưu luyến, thù hận, hằn học và đóng chặt cửa lòng của mình lại.

2. Chánh tư duy: Đây là não thức giúp con người có những khát khao chuẩn mực, biết hy sinh và tận tụy, giải thoát mình khỏi những ràng buộc, những hằn học và những não trạng vô tâm hờ hững. Đây là khái niệm cá nhân mình tự hoàn thiện và thăng tiến, vốn đạt được khi con người trải qua đau khổ bắt đầu thực hiện bước đầu tiên vươn lên.

Liệu pháp là một khái niệm mà cả thân chủ và nhà trị liệu không thể hời hợt xem nhẹ – Nhà trị liệu phải có một vai trò chủ động trong việc giúp thân chủ có thể phát triển kỹ năng tư duy. Thân chủ cần ý thức được thực tế cội rễ của những nỗi đau khổ của thân chủ. Trách nhiệm của thân chủ là có một vai trò chủ động trong việc thực hiện những thao tác cần thiết nhắm đến hoàn thiện và thăng tiến. Ngay cả nếu như họ cần phải đối diện với những nỗi lo sợ mà họ luôn tìm cách né tránh, đặc biệt là nỗi lo sợ khi thân chủ sợ sẽ đánh mất mình trong quá trình trị liệu.

Ba bộ phận khác của Bát đạo cung cấp những hướng dẫn rất chi tiết có tính năng như những lời huấn giảng đạo đức gọi là sila:

3. Chánh ngữ: Đây là giáo huấn khuyên răn chúng ta nên tránh xa, không vướng vào những cạm bẫy nói dối, đơm điều đặt chuyện và những lời nói có tính cách cay độc, gây tổn thương và làm mất đi tinh thần hòa khí xây dựng. Lời nói thường là thái độ đóng cửa lòng được nhận ra dễ nhất và cũng là cách dễ nhất để con người làm tổn thương đến người khác. Những nhà tâm lý hiện đại vẫn khuyến cáo các thân chủ của mình hãy chấm dứt việc tự lừa dối mình. Nhưng đạo Phật còn dặn dò thâm sâu hơn khi huấn dạy: Nếu con người thật sự chân thành ngay thẳng với thân nhân, họ sẽ tìm thấy việc lừa dối chính mình thật ra rất khó thực hiện.

4. Chánh nghiệp: Đây là đạo – đạo dạy con người hãy biết xử thế sao cho đúng với nhân vị và phẩm cách, tránh xa những hành vi gây đau đớn và nguy hiểm như giết chóc, trộm cắp hoặc những hành vi tính dục thiếu trách nhiệm. Dựa theo truyền thống, các vị Phật tổ đã nói về 5 lời huấn giảng đạo đức, gồm:

– Tránh gây hại người khác

– Đừng lấy vật không phải của mình

– Tránh lời nói gây hại

– Tránh tình dục thiếu trách nhiệm

– Tránh nghiện ngập và rượu chè

Những vị Phật tổ nghiêm khắc còn đi xa hơn 5 huấn dạy khác nữa:

– Một bữa cơm thanh đạm một ngày, trước giờ ngọ

– Tránh xa những hình thức giải trí nhảm nhí

– Tránh ăn mặc trang điểm diêm dúa

– Giường nằm và ghế ngồi đơn giản

– Tránh đụng chạm và sở hữu tiền bạc

Ngoài ra các chư tăng và chư ni sống trong các cộng đồng tu trì còn phải giữ 100 giới luật khác nữa.

5. Chánh mạng: Đây là huấn đạo khuyên răn con người hãy sống thật thà bất bạo động, không gây khổ đau cho người khác. Đây là điều chúng ta không chú trọng trong thời gian gần đây. Chúng ta nhận ra vẫn còn những bất công xảy ra hàng ngày đến từ tham lam; cắt cuống họng lẫn nhau, khinh thường kỷ cương, phỉ báng tòa án lương tâm. Gian lận từ trong mùa thi cử đến buôn bán kinh doanh và nhiều lợi dụng khác trên danh nghĩa nhân đạo nhưng thực chất là vỏ bọc của những hành vi lừa đảo. Tuy nhiên chánh nhân không có nghĩa là một cá nhân phải xuất gia, qui y. Song hãy thực hiện nhiệm vụ, công việc của mình một cách có ý nghĩa và tinh thần trách nhiệm trong cương vị công việc của mình. Như thế, dù là người bán báo, xin ăn, cô giáo, công an, ca sĩ, thầy thuốc, luật sư ai trong chúng ta cũng có nhiều cơ hội để trở thành một con người tốt.

Đây là một điểm tốt để bắt đầu những thuật ngữ mang khái niệm gắn liền với tôn chỉ của Phật giáo: Nghiệp quả: Xét về mặt căn bản, nghiệp quả ngụ ý về những hành vi tốt hay xấu sẽ sinh ra những kết quả khác nhau. Có một vài nhánh Phật giáo tin rằng nghiệp quả sẽ có ảnh hưởng quyết định đến quá trình nhập thể trong đời sống kiếp sau của vòng quay luân hồi. Tuy nhiên một số các nhánh Phật giáo khác cho rằng nghiệp quả là khái niệm cho rằng những hành vi xấu và hành vi tốt sẽ có những ảnh hưởng tiêu cực hay ảnh hưởng tích cực lên phẩm cách của một cá nhân.

Theo nhánh Phật giáo cởi mở và chú trọng đến tính hiện sinh của các hành vi thì làm điều thiện sẽ thắp sáng tâm hồn, giống như câu nói cửa miệng của các người bán hàng rong Ai Cập vẫn nói rằng: Làm một điều thiện sẽ đem về cho ta thêm 3 lần nhiều hơn, vì thế lòng thiện cho đi sẽ càng nhận lại nhiều hơn. Làm điều xấu, gây hại đến anh em, cứ như thế tâm hồn họ sẽ càng lu mờ tăm tối hơn, họ sẽ không còn tìm thấy được ý nghĩa của niềm vui đích thực và hạnh phúc trở thành khó đến vì tâm hồn họ quá nặng nề với những mặc cảm hằn học. Tóm lại, điều thiện tự thân nó là quà tặng cuộc đời cho mình và cho người khác. Điều ác: tự thân nó là hỏa ngục giam hãm người đã làm ra nó.

Ba bộ phận sau cùng của Bát đạo là trung tâm của những huấn giảng đã thật sự khiến cho đạo Phật trở nên được nhiều người biết đến, đây là những huấn dạy về thiền.

6. Chánh tinh tấn: Đây là huấn đạo hướng con người đến việc kiểm soát và kiềm chế tâm trí của chúng ta và cả nội dung của những tư tưởng trong đó, đơn giản đây là cách khuyến khích chúng ta hãy thực hiện để thăng tiến đời sống nề nếp tinh thần khi những tư tưởng xấu và những xung động tiêu cực xuất hiện, chúng cần được dẹp bỏ và đánh tan. Đây là cách chúng ta cẩn thận cảnh giác với những tư tưởng tiêu cực và ngăn chặn không cho chúng có cơ hội trở thành đeo bám và luyến lưu câu nệ. Chúng ta nên đối diện với những sự kiện hiện diện trước mắt như một thực tế mang tính dữ kiện khách quan. Chúng ta không nên thêm thắt hay bớt xén, không từ chối mà cũng không dồn nén. Ta nên có một thói quen coi tất cả những sự kiện như một sự kiện thuần túy. Tư tưởng tốt đẹp và những khát khao chân chính hướng thiện cần được nuôi dưỡng và vun trồng. Hãy biến việc thiện trở thành một thói quen của đời sống chính mình.

7. Chánh niệm: Đây là phạm trù huấn đạo có liên hệ đến tham thiền tập trung vào quá trình chấp nhận những tư tưởng và cách nhìn, một sự quan tâm và tiếp cận bạch thoại những sự kiện hoàn toàn không có bất cứ những thái độ suy diễn câu nệ vướng víu nào. Đây là lối tìm đến sự thanh thản trong bối cảnh đời sống bình dị hàng ngày. Đây là cách tu tâm để đạt đến trạng thái sung mãn hơn, phong phú hơn và có ý thức trách nhiệm với đời sống. Đây chính là điều giúp chúng ta sống thực, có ý thức, có ý nghĩa, thay vì sống trượt – sống như một sinh thể trong trạng thái mộng du.

Một giáo huấn tinh thần quan trọng nhất trong Phật giáo là: Nên tránh việc đánh mất ý thức của mình hay là hành động thay thế những giá trị vật chất để khỏa lấp nhưng khoảng trống, ví dụ như mượn rượu và thuốc phiện để quên sầu. Đây là trạng thái tiêu cực đã khiến chúng ta cảm thấy mình càng thiếu vắng hơn, tạo ra những tín hiệu giả tạo, dẫn ta đi ngược với xu hướng thăng tiến phục thiện để đi vào những thói quen đóng cửa lòng, hay tệ hơn là thói quen an tâm với những u mê.

Ngoài ra còn có những chất hóa học như thuốc lá, thuốc phiện và rượu có thể giảm thiểu ý thức trong sáng của chúng ta. Nhiều cá nhân né tránh cuộc sống qua những kênh van xả khác như tham lam trong ăn uống, thác loạn tình dục và những đam mê thiếu lành mạnh khác. Nhiều người vùi mình vào công việc, những công việc trống rỗng, quá nguyên tắc đến độ cứng nhắc, hoặc thao tác thể hiện tính chất sai lệch, dẫn đến việc mình trở thành trung tâm của những giá trị ảo. Nhiều người chìm vào giải trí thiếu lành mạnh và vòng xoáy càng lúc càng quăng mạnh hơn.

Chúng có thể nhận chìm ý thức cảnh giác của mình dưới sức nặng của vật chất. Chúng ta mê mải muốn mình có xe tay ga, điện thoại di động đời mới nhất, mặc quần áo hàng hiệu và những cuốn hút vào mua sắm phô trương. Phần lớn những người tu trì thường xa lánh những lôi kéo xa hoa phù phiếm. Thời hiện đại A–còng (@) và kỹ thuật số đã thay đổi và có những tác động rất mạnh lên đời sống của chúng ta, trong đó vai trò của quảng cáo, hệ thống bán hàng siêu thị, những phương tiện truyền thông đã bắt đầu lũng đoạn cách nghĩ và cách cư xử của chúng ta.

8. Chánh định: Đây là lối tham thiền trong đường hướng sinh hoạt cần đến khả năng cố gắng tập trung để tẩy rửa và dọn sạch những lưu luyến về vật chất và tư dục, những tư tưởng né tránh, lầm lạc trong cõi u mê để ta nhận thức được rằng mọi giá trị trong đời sống không thể tuyệt hảo, bền vững vĩnh hằng. Nhất là chẳng có điều gì là tuyệt đối quan trọng. Đây là lối tham thiền cao nhân của Phật giáo và chỉ có một số ít tu sĩ Phật giáo sau một quá trình tu luyện lâu ngày mới đạt được cảnh giới này.

Tựu trung lại, những bước chánh đạo trước sẽ là bậc thang, cung cấp nền tảng cơ bản cho bước chánh đạo cao hơn. Ví dụ như để đạt được trạng thái bình an thật sự, một hình thái của tập trung tư tưởng hay con gọi là Chánh định, chúng ta cần chủ động tìm ra ý nghĩa thật sự của cuộc sống qua tham thiền. Tham thiền là quá trình tập hợp những thao tác có sự lặp đi lặp lại như một chu kỳ mà ta vẫn bắt gặp qua những ví dụ xảy ra rất nhiều trong đời sống thiên nhiên. Một cách tham thiền hiệu quả nhất là tập đếm hơi thở của mình, tụng niệm những lời kinh… Chính sự làm cho tĩnh lặng tâm hồn là điều quan trọng then chốt đạt đến tinh thần trong sáng, tạo ra những cố gắng phấn đấu và tập trung vào những hành vi mang tính thiện. Chỉ khi nào chúng ta được giải phóng ra khỏi những ràng buộc của tư dục và sầu não, chúng ta mới nhìn thấy giá trị của việc xây dựng kiến thiết trong ánh sáng.

Tất nhiên những giá trị tham thiền cần với gắn bó với cuộc sống. Đánh máy chữ trong cơ quan với tất cả tinh thần yêu công việc là tham thiền. Cho con bú với tình cảm của một người mẹ tràn đầy yêu thương là tham thiền. Đọc một cuốn sách có ý nghĩa giáo dục là tham thiền, ăn cơm, coi ti vi, lái xe đi làm, thăm người ốm, dạy phụ đạo cho một em bé, nhặt một cộng rác trước sân nhà, nói một câu có tinh thần xây dựng, xin lỗi, nhận lỗi, phản tỉnh… tất cả đều là tham thiền. Một ngày như thế, chúng ta đã có không biết bao nhiêu là cơ hội tham thiền.

6. Ứng dụng vào tâm lý

Phần nhiều các nhà tâm lý trị liệu thấy nơi thân chủ của mình là tình trạng lo lắng. Và đây là cội rễ của mọi lo âu về đau khổ nếu xét về phương diện tâm lý. Trạng thái thứ hai thân chủ hay gặp phải là tình trạng hằn học không thể giải quyết được. Nếu không phải là đau khổ vì hận thù căm tức, đây sẽ là những nỗi buồn thụ động u sầu, trầm uất và chán nản. Nhiều người có thể giải tỏa được những vấn đề này bằng cách tham thiền – một cách tập trung vào mọi diễn biến và sự kiện trong đời sống như một sự kiện hay một trạng thái mang tính dữ kiện. Tham thiền là gạt bỏ những suy diễn rối rắm không cần thiết, dẫn đến những nỗi lo lắng mơ hồ, sau đó dồn nén lại, nặng dần lên và cuối cùng là khả năng chịu đựng có giới hạn của chúng ta sẽ bị phá vở. Tham thiền không giúp chúng ta gạt bỏ tất cả những sự kiện trọng đời sống - nhưng tham thiền là một cửa sổ mở ra bầu trời chân lý, giúp ta nhìn ra chân tướng bình thường của sự kiện bằng một trái tim không vướng axít hằn học, bằng đôi mắt trong sáng không bị mây tối che mờ và bằng khối óc được hoàn toàn thanh thản tự do không còn những bụi bặm vị kỷ, lo lắng và hoài nghi.

7. Bồ tát

Một vị Bồ tát là một cá nhân đã đạt đến cảnh giới khai sáng. Bồ tát là người đã chọn không đi vào cõi Niết bàn mà quyết định ở lại vòng sinh tử luân hồi để giúp đỡ con người – những Bồ tát là người có lòng vị tha và nhân từ đến độ họ muốn phổ độ chúng sinh qua những hiện thân hiện tại để mọi người cùng được đến cõi Niết bàn với họ. Một mô hình của Bồ tát là những vị tiên, các vị thánh. Và niềm tin của nhiều nhánh Phật giáo phía Bắc vẫn tin rằng ai cũng có những đức tính tiềm tàng có khả năng để trở thành Bồ tát.

Làm sao chúng ta có thể tìm thấy chân dung của một vị Bồ tát giữa những con người bình thường xung quanh chúng ta? Họ thường là những con người có 4 đức tính cao quý được gọi là Phật tánh:

– Yêu thương tử tế tất cả mọi loài chúng sanh

– Có lòng trắc ẩn với tất cả những ai đau khổ

– Vui mừng và đồng cảm với tất cả những ai đang vui vẻ.

– Tâm xả, bỏ mọi phiền não, bình thản tự tại

Đơn giản hơn, trong chúng ta, ai cũng đã có những cơ duyên chính mình là một Bồ tát. Hoặc ta nhiều lúc vẫn buột miệng kêu lên rằng: Bạn bồ tát quá! Ông ấy bồ tát lắm! Cậu ấy, chị ấy, người ấy Bồ tát quá! Hiểu theo một ý nghĩa thiêng liêng nào đó, ta có thể tìm thấy Bồ tát từ nơi chính con người của mình và những người xung quanh.

Với Phật giáo phương Bắc, Bồ tát là người đã đạt được giới cảnh hư vô. Một trạng thái họ đã vượt qua những não thức lưỡng cực bình thường. Chúng ta thường có những não thức tư duy lưỡng cực như: [đó–đây], [chúng ta–người khác], [có–không], [trước–sau], [mối lợi–điều hại], [được–mất]… Người đã được khai sáng nhìn thấy tất cả những giá trị này hòa quyện tan loãng vào nhau, trở thành một tổng thể. Khi không còn lưỡng cực hay đối cực, trạng thái so sánh đắn đo không còn nữa – chúng ta là những con người – khi thế giới trở thành hợp nhất – tự thân thế giới sẽ trở thành hư vô. Bạn sẽ không còn ưu tư để chọn lựa nữa. Trong mắt bạn tất cả chỉ có một giá trị duy nhất – tất cả trở thành hư vô – một trạng thái tan loãng của sự hợp nhất.

Một hình thái của thiền trong Phật giáo là Zen. Đây là cách những đồ đệ thường hỏi các bậc cao tăng, cao ni với những câu hỏi. Các bậc cao tăng, cao ni sẽ suy nghĩ tham thiền về những câu hỏi này và mong mình sẽ phá vỡ được não thức đối cực để đến được với não thức vô cực. Đây vốn là những câu hỏi vẫn án ngữ trên hành trình chúng ta đi tìm sự liên hệ với vũ trụ. Một trong những ý niệm nổi tiếng nhất là: âm thanh khi bạn vỗ tay bằng một bàn tay sẽ như thế nào?

Đây là ý niệm vượt qua những cảm giác bình thường. Âm thanh nào được đưa ra cũng đều không đúng cả. Nhưng bảo là im lặng thì cũng không đúng, vì một bàn tay vỗ không hẳn là một sự yên lặng, mà đó là một sự yên lặng bên trong một sự yên lặng khác. Khái niệm chiều kích âm thanh và im lặng không thể áp dụng cho những đại lượng không bao hàm trong nó những chiều kích này. Đây là câu hỏi tạo ra chất liệu và cấu trúc tư duy rất khác thường như những khúc xạ mà những não thức bình thường sẽ vấp phải khó khăn trong quá trình lý giải. Ví dụ như màu xanh nếm có vị gì? Sự thật ngửi mùi ra làm sao? Chân dung của tiếng gió? Hình ảnh của lương tâm? Tất nhiên là vì có quá nhiều câu trả lời nên cuối cùng tất cả tan lẫn vào nhau, não thức của con người sẽ tan biến và trở thành một trạng thái của hư vô.

Một câu hỏi đầy diệu ý khác là: Nếu tôi nói, tôi sẽ bị phạt. Nếu tôi không nói, tôi cũng vẫn bị phạt. Nghe có vẻ đây là một ngõ cụt không có lối ra, hai kết quả giống nhau không tránh được và như thế sẽ chẳng có gì khác biệt giữa hai chọn lựa, vì thế chúng ta chẳng thiết tha gì đến khái niệm tự do trong chọn lựa của mình. Tuy nhiên không phải ai cũng nhìn thấy ý nghĩa tự do trong một tình huống mà họ không còn cần đến phải có những lựa chọn khác nữa. Có lẽ nếu ta đổi câu nói trên thành: im lặng tôi sẽ được thưởng, nói ra tôi cũng được thưởng, ta sẽ dễ nhận ra giá trị của sự tự do hơn. Một lần nữa não thức không trói buộc vẫn là một lựa chọn tốt nhất cho sự thanh thản.

8. Niết bàn

Đức Phật tổ đã có câu: Niết bàn là hiện thân có nghĩa, một đời sống hoàn thiện là bản thân chính đời sống. Có quá nhiều điều chúng ta được nghe thấy về những tư tưởng vĩ đại, sâu sắc, thâm thúy và những cảnh giới khai sáng, những hiện tượng tối thượng… Thật ra đạo Phật đơn giản hơn như thế, nhìn từ góc cạnh mô hình so sánh, đạo Phật chính là một phương thế đem lại hạnh phúc giữa cuộc đời bằng cách quay trở về với cuộc sống, bắt đầu từ đời sống của mỗi chúng ta, khởi hành từ những thái độ mới, mỗi ngày một ít.

Bằng cách nào? Hãy bình thản lại, sống chậm hơn một chút, ý thức hơn một chút. Hãy là một người dễ mến thân ái hơn, đạo đức hơn mỗi ngày một chút. Khi một người được giải phóng khỏi hằn học ghen tuông, khỏi tham lam độc ác, dẹp hết những tư vị cay đắng, từ bỏ đeo đuổi những mơ ước viển vông, họ sẽ có bình an. Nhất là ta nên tìm thấy ý nghĩa khổ đau trong vui thỏa và hạnh phúc ở chừng mực tiết độ, cuộc sống của chúng ta sẽ không bao giờ rơi vào những cung bậc não thức dằn vặt, kể cả hơi thở của ta sẽ nhẹ và thơm hơn. Hãy ngừng ngay việc tự hành hạ mình, hãy cho phép mình hòa nhập và tận hưởng những gì chúng ta đáng được tận hưởng. Cuộc sống là một kho tàng niềm vui. Bạn hãy từ bỏ u ám và đau khổ, chỉ với không còn đau khổ và u ám nữa thì cuộc sống tự thân nó đã vui vẻ hơn gấp bao nhiêu lần rồi.

Các nhà Phật học còn sử dụng khái niệm tu luyện để diễn tả về những hành động và ý thức của mình. Họ khuyến khích chúng ta hãy cứ tiếp tục luyện tập. Họ khuyến khích chúng ta rằng chẳng có cá nhân nào là hoàn hảo. Và điều họ muốn nhắc nhở chúng ta là hãy nâng mình lên, mỗi ngày một ít – và đó cũng chính là điều mà các nhà liệu pháp muốn những thân chủ của mình nên thực hiện: Mỗi ngày một ít. Và đó cũng là nền tảng của tất cả những kỹ năng liệu pháp.

Tác giả: Nguyễn Thơ Sinh
Previous Post
Next Post