Sở hữu hay hiện hữu?

Erich Fromm
Trong lời dẫn nhập tác phẩm TO HAVE OR TO BE? (Sở hữu hay Hiện hữu?) xuất bản năm 1976, Erich Fromm đã chỉ ra một cách đầy thuyết phục rằng những cơ sở của xã hội công nghiệp đương đại đã dựa trên những tiền đề sai trái về bản tính con người.

Vì vậy, Lời hứa hẹn Vĩ đại (Great Promise) về tiến bộ không giới hạn - thống trị thiên nhiên, của cải vật chất ê hề, hạnh phúc lớn nhất cho số đông người nhất và tự do cá nhân không có cản trở - là một ảo tưởng. Ngày nay những người ý thức được sự thất bại rõ ràng của Lời hứa hẹn Vĩ đại ngày càng nhiều hơn. Loài người đang đối diện với nguy cơ chiến tranh hạt nhân và thảm họa môi trường.

Dưới đây là lược thuật một vài nội dung của tác phẩm TO HAVE OR TO BE do Nguyễn Văn Trọng thực hiện (các tiêu đề là của NVT).

Fromm nhận xét rằng nền văn minh của chúng ta đã khởi sự từ khi loài người kiểm soát thiên nhiên một cách tích cực, nhưng vào thời kỳ trước thời đại công nghiệp việc kiểm soát ấy là có giới hạn. Với tiến bộ mạnh mẽ của công nghiệp và khoa học kỹ thuật chúng ta cảm thấy dường như đã tìm được cách thức sản xuất vô giới hạn và do đó mà tiêu thụ vô giới hạn. Tưởng chừng như kỹ thuật đã biến chúng ta thành toàn năng, rằng khoa học đã biến chúng ta thành toàn trí.

Chúng ta đang tiến tới trở thành các thần linh, những hữu thể thượng đẳng có thể tạo ra được một thế giới thứ hai bằng cách sử dụng thế giới tự nhiên như những khối vật liệu xây dựng phục vụ cho sáng tạo mới mẻ của chúng ta. Nhất thể ba ngôi của sản xuất vô giới hạn, tự do tuyệt đối và hạnh phúc vô bờ bến, tạo thành hạt nhân của một tôn giáo mới. Tiến bộ và Đô thành trần gian mới của Tiến bộ thay thế cho Thiên đường của Chúa. Không có gì ngạc nhiên khi tôn giáo mới ấy cung cấp cho các tín đồ của mình năng lượng, sức sống và hy vọng.

Fromm cho rằng cần phải hình dung được hết vẻ hoành tráng của Lời hứa hẹn Vĩ đại, cũng như những thành tựu trí tuệ tuyệt vời của thời đại công nghiệp để thấu hiểu được cơn khủng hoảng tinh thần mà việc thức ngộ ra sự thất bại của nó gây nên cho ngày nay. Bởi vì thời đại công nghiệp quả thật đã thất bại trong việc thực hiện Lời hứa hẹn Vĩ đại của mình, nên ngày càng có nhiều người ý thức được rằng:

- Việc thỏa mãn vô giới hạn mọi ham muốn không dẫn đến an sinh, mà cũng chẳng đưa tới hạnh phúc hay ngay cả niềm vui cực đại nữa.

- Giấc mơ được làm chủ nhân độc lập cuộc sống của chúng ta kết thúc, khi chúng ta đang bắt đầu nhận ra rằng tất cả chúng ta đều trở thành những bánh răng trong cỗ máy quan liêu, những suy tư, cảm xúc và sở thích của chúng ta đều bị thao túng bởi chính quyền và nền công nghiệp cũng như bởi các phương tiện truyền thông đại chúng mà họ kiểm soát.

- Tiến bộ kinh tế vẫn chỉ giới hạn ở các quốc gia giàu có và khoảng cách giữa các quốc gia giàu và nghèo ngày càng rộng ra thêm.

- Bản thân tiến bộ kỹ thuật lại tạo ra những nguy cơ cho môi trường sống và nguy cơ chiến tranh hạt nhân, bất cứ nguy cơ nào hoặc là cả hai nguy cơ đều có thể kết thúc toàn bộ nền văn minh và cũng có thể là toàn bộ cuộc sống.

Fromm đặt vấn đề: Vì sao Lời hứa hẹn Vĩ đại lại thất bại? Ông cho rằng ngoài những mâu thuẫn kinh tế mang tính bản chất của chủ nghĩa công nghiệp ra thì sự thất bại của Lời hứa hẹn Vĩ đại đã nằm sẵn trong hệ thống công nghiệp bởi hai tiền đề tâm lý chủ yếu: 1) mục đích cuộc sống là hạnh phúc, tức là niềm vui cực đại được định nghĩa như thỏa mãn mọi ham muốn hay nhu cầu chủ quan mà con người cảm nhận thấy (chủ nghĩa khoái lạc cực đoan); 2) thói vị kỷ, tư lợi và lòng tham mà hệ thống cần tạo ra trong nó để hoạt động, sẽ dẫn đến hài hòa và thanh bình.

Fromm nhận xét rằng những kẻ giàu sang đều đã thực hành chủ nghĩa khoái lạc cực đoan trong suốt lịch sử. Giới tinh hoa đặc quyền ở La Mã, ở các đô thị Ý thời kỳ Phục hưng, và ở Anh và Pháp vào những thế kỷ mười tám và mười chín đã thử sử dụng những phương tiện vô giới hạn ấy để tìm ý nghĩa cuộc sống trong niềm vui vô giới hạn.Trong khi đó các nhà hiền triết ở phương Đông cũng như phương Tây đều không xem nó là an sinh. Họ phân biệt rạch ròi những nhu cầu thuần túy chủ quan mà con người cảm nhận thấy với những nhu cầu có giá trị khách quan. Một số nhu cầu chủ quan gây tác hại cho sự phát triển con người, trong khi các nhu cầu có giá trị khách quan lại phù hợp với những đòi hỏi của bản chất con người.

Thời đại ngày nay, phần lớn là từ sau Thế chiến thứ nhất, đã quay trở về với thực hành và lý thuyết của chủ nghĩa khoái lạc cực đoan. Khái niệm niềm vui vô giới hạn tạo nên một mâu thuẫn kỳ quặc cho lý tưởng của công việc mang tính kỷ luật, tương tự như mâu thuẫn giữa đạo đức làm việc như điên và lý tưởng lười biếng hoàn toàn sau giờ làm việc và trong kỳ nghỉ. Chỉ có làm việc như điên không thôi có thể khiến cho người ta hóa rồ dại, hoàn toàn lười biếng cũng có thể dẫn đến kết quả ấy. Nhưng phối hợp với nhau thì chúng lại sống được. Hơn nữa, hai thái độ mâu thuẫn lại phù hợp với một tất yếu kinh tế: chủ nghĩa tư bản thế kỷ hai mươi dựa trên việc tiêu thụ cực đại các hàng hóa và dịch vụ, cũng như dựa trên công việc chung sức theo nề nếp.

Những xem xét lý thuyết chứng tỏ rằng chủ nghĩa khoái lạc cực đoan không thể dẫn đến hạnh phúc cũng như giải thích được tại sao lại như vậy với bản chất con người hiện có. Nhưng chẳng cần phân tích lý thuyết thì những dữ liệu quan sát được cũng cho thấy thật rõ ràng rằng cái kiểu cách của chúng ta "mưu cầu hạnh phúc" không tạo nên được an sinh. Chúng ta là một xã hội của những người khét tiếng bất hạnh: cô đơn, lo âu, trầm cảm, phá phách, phụ thuộc. Ông viết: "Chúng ta chính là một thí nghiệm xã hội vĩ đại nhất được thực hiện từ trước tới nay để giải đáp vấn đề liệu niềm vui (như một tác động thụ động khác biệt hẳn với tác động tích cực, an sinh và vui vẻ) có thể là một lời giải đáp thỏa đáng cho vấn đề hiện hữu nhân bản hay không. Lần đầu tiên trong lịch sử nỗ lực thỏa mãn niềm vui không còn chỉ là đặc quyền của một thiểu số, mà còn là khả dĩ cho hơn một nửa dân số.[1] Thí nghiệm đã trả lời cho vấn đề ở dạng phủ định."

Fromm viết tiếp: "Tiền đề tâm lý thứ hai của thời đại công nghiệp cho rằng mưu cầu vị kỷ cá nhân dẫn đến hài hòa và thanh bình, dẫn đến gia tăng phúc lợi của mỗi người, tiền đề này cũng vừa sai trái trên cơ sở lý thuyết và cũng bị chứng tỏ là lầm lẫn bởi các dữ liệu quan sát được. Là một kẻ vị kỷ không chỉ liên quan đến cung cách ứng xử của tôi mà còn liên quan đến tính cách của tôi nữa.

Điều này có nghĩa: là tôi muốn mọi thứ cho bản thân mình; là sở hữu, chứ không phải chia sẻ, sẽ đem lại niềm vui cho tôi; là tôi phải trở nên tham lam vì rằng mục đích của tôi là sở hữu, nên càng sở hữu nhiều thì tôi càng hiện hữu; là tôi phải cảm thấy đối địch với tất cả những kẻ khác: ấy là những Người tiêu thụ của tôi mà tôi muốn dụ dỗ, những kẻ cạnh tranh với tôi mà tôi muốn hủy hoại, những công nhân của tôi mà tôi muốn bóc lột. Tôi không bao giờ có thể thỏa mãn, vì rằng ham muốn của tôi vô bờ; tôi phải đố kỵ với những kẻ sở hữu nhiều hơn tôi và tôi phải e ngại những kẻ sở hữu ít hơn tôi. Thế nhưng tôi lại phải kìm nén tất cả những cảm xúc ấy để trưng bản thân mình ra (trước những người khác cũng như trước bản thân tôi) như là người sẵn sàng giúp đỡ, yêu lẽ phải, chân thành, kiểu người mà ai cũng muốn hướng tới."

Fromm cho rằng đam mê sở hữu ắt phải dẫn tới cuộc chiến tranh giai cấp không khi nào kết thúc. Kỳ vọng của những người cộng sản cho rằng hệ thống của họ sẽ chấm dứt được đấu tranh giai cấp là chuyện hư ảo, vì hệ thống của họ dựa trên nguyên tắc xem tiêu thụ vô giới hạn như mục đích cuộc đời. Chừng nào mỗi người đều muốn sở hữu nhiều hơn thì nhất định sẽ hình thành các giai cấp, nhất định sẽ có chiến tranh giai cấp, và trong điều kiện toàn cầu thì ắt phải có chiến tranh quốc tế. Tín điều của tôn giáo mới và nền hòa bình là loại trừ nhau.

Fromm nhận xét rằng chủ nghĩa hưởng lạc cực đoan và chủ nghĩa vị kỷ vô giới hạn đã nổi lên như những nguyên lý dẫn dắt hành xử kinh tế, chính là vì một biến chuyển nghiêm trọng đã xảy ra vào thế kỷ mười tám. Thông qua một số bước đi, chủ nghĩa tư bản thế kỷ mười tám đã trải qua một biến chuyển căn bản: hành xử kinh tế trở nên tách biệt khỏi đạo đức luận và những giá trị nhân bản (điều chưa từng có vào thời trung đại). Quả thực người ta đã giả định rằng cỗ máy kinh tế là một thực thể tự trị (autonomous entity), độc lập với những nhu cầu và ý chí của con người. Đây là một hệ thống tự nó vận động và thuận theo những định luật riêng của nó. Nỗi đau khổ của các công nhân cũng như sự hủy hoại những doanh nghiệp nhỏ (có số lượng vẫn tăng lên) phục vụ cho sự tăng trưởng của các tổ hợp rộng lớn hơn, là một tất yếu kinh tế mà người ta lấy làm tiếc, nhưng đành phải chấp nhận như là hệ quả của một định luật tự nhiên.

Sự phát triển của hệ thống kinh tế này không còn được xác định bởi câu hỏi: Điều gì là tốt cho Con người? mà được xác định bởi câu hỏi: Điều gì là tốt cho Hệ thống? Người ta đã cố giấu diếm sự gay gắt của xung đột này bằng cách tạo ra giả định rằng điều gì là tốt cho tăng trưởng của hệ thống (hay thậm chí cho riêng một tổ hợp lớn) cũng là tốt cho dân chúng. Cái tạo dựng (construction) này được củng cố bởi một tạo dựng bổ trợ: chính những phẩm tính mà hệ thống đòi hỏi ở con người - vị kỷ, tư lợi và tham lam - là bẩm sinh trong bản chất con người; vậy là không chỉ riêng hệ thống mà chính ngay bản chất con người cũng khuyến khích những phẩm tính ấy. Người ta không chịu thừa nhận rằng những đặc điểm ấy không phải là động lực khiến cho xã hội công nghiệp tồn tại và rằng chúng chỉ là sản phẩm của những hoàn cảnh xã hội.

Một nhân tố nữa cũng không kém phần quan trọng: mối quan hệ của con người đối với thiên nhiên đã trở nên thù địch sâu sắc. Vốn là những hữu thể dị dạng ("freaks of nature"), mà chính những điều kiện cho hiện hữu là ở trong thiên nhiên, chúng ta nhờ những điều kiện ấy và bằng năng khiếu lý trí đã vượt lên thiên nhiên, chúng ta đã cố giải quyết vấn đề hiện hữu của mình, nhưng lại chối bỏ cái nhìn của Chúa cứu thế về sự hài hòa của loài người và thiên nhiên, bằng cách chinh phục thiên nhiên, bằng cách biến cải thiên nhiên theo những mục tiêu của riêng chúng ta cho đến khi cuộc chinh phục ngày càng trở thành cuộc phá hủy. Tinh thần chinh phục và thù địch đã khiến chúng ta mù quáng không thấy được thực tế là nguồn tài nguyên thiên nhiên có hạn và rốt cuộc sẽ cạn kiệt và rằng thiên nhiên rồi sẽ giáng trả lại thói tham tàn của con người.

Xã hội công nghiệp coi khinh thiên nhiên cũng như mọi thứ không do máy móc tạo nên và coi khinh tất cả những ai không phải là nhà chế tạo máy...Ngày nay người ta bị lôi cuốn bởi máy móc cơ giới hùng mạnh, vô sinh khí và ngày càng hướng nhiều hơn tới phá hủy.

Cho tới nay luận cứ đưa ra ở đây cho rằng những đặc điểm tính cách là do hệ thống kinh tế-xã hội gây nên, tức là lối sống của chúng ta là căn bệnh di truyền và rốt cuộc sản sinh ra con người bệnh hoạn và rồi là xã hội bệnh hoạn. Nhưng còn có một luận cứ thứ hai nhìn từ một quan điểm hoàn toàn khác cũng tán thành việc thay đổi sâu sắc về tâm lý trong Con người, như một lối thoát cho thảm họa kinh tế và môi trường. Luận cứ này được nêu ra trong hai bản tường trình được ủy nhiệm bởi Câu lạc bộ La Mã, một tường trình là của D.H. Meadows và các đồng tác giả, bản tường trình kia là của M.D. Mesarovic và E. Pestel.

Cả hai bản tường trình đều đề cập đến các xu hướng kỹ thuật, kinh tế, và dân số trên quy mô toàn cầu. Mesarovic và Pestel kết luận rằng chỉ có những thay đổi quyết liệt về kinh tế và kỹ thuật ở mức độ toàn cầu theo một kế hoạch thành thạo mới có thể "tránh được một thảm họa to lớn và về cơ bản mang tính toàn cầu."... Mesarovic và Pestel kết luận tiếp rằng những thay đổi kinh tế như vậy chỉ khả dĩ "nếu như có được những thay đổi trong các giá trị và thái độ của con người [Fromm muốn gọi nó là những thay đổi trong tính cách (định hướng) của con người], như là một đạo đức mới và một thái độ mới đối với thiên nhiên."

Sự cần thiết phải có thay đổi sâu sắc ở con người không chỉ như một yêu cầu đạo đức hay tôn giáo, không chỉ như một yêu cầu tâm lý nảy sinh từ bản chất mắc bệnh di truyền của tính cách xã hội hiện nay của chúng ta, mà cũng còn là điều kiện sống sót được cho loài người. Quyền được sống không còn chỉ là hoàn tất một yêu cầu đạo đức và tôn giáo. Lần đầu tiên trong lịch sử việc sống sót thân xác của loài người tùy thuộc vào sự thay đổi căn bản của trái tim. Tuy nhiên, một thay đổi căn bản của trái tim con người lại chỉ khả dĩ trong chừng mực có được những thay đổi quyết liệt về kinh tế và xã hội đem lại cho trái tim con người cơ hội để thay đổi, lòng can đảm và tầm nhìn để đạt được điều đó.

Fromm đặt câu hỏi: Liệu có khả dĩ một lựa chọn khác để thoát khỏi thảm họa hay không? Ông nhận xét rằng tất cả những dữ liệu đề cập đến ở trên đều đã được công bố và mọi người đều được biết. Nhưng sự thực không thể tin nổi là chẳng có nỗ lực nghiêm chỉnh nào được làm để tránh khỏi cái điều có vẻ giống như một bản án chung thẩm của định mệnh. Trong lúc ở cuộc sống riêng tư chẳng một ai ngoại trừ kẻ điên rồ lại có thể thờ ơ trước mối đe dọa đối với toàn thể tồn tại của chúng ta, thì những kẻ có trách nhiệm công cộng trên thực tế lại chẳng làm gì hết, còn những người phó thác số phận của mình cho chúng lại cứ để cho chúng tiếp tục không làm gì hết.

Làm sao mà một bản năng mạnh mẽ nhất trong tất cả mọi bản năng là bản năng sống sót, lại khả dĩ thôi không còn thúc đẩy chúng ta nữa? Một trong những giải thích hiển nhiên nhất là các nhà lãnh đạo đã có nhiều hành động khiến cho họ có thể giả bộ như đang làm gì đó hữu hiệu để tránh khỏi thảm họa: những hội nghị hội thảo, những nghị quyết, những thảo luận giải trừ quân bị, liên miên không dứt, mọi thứ đều gây ra ấn tượng rằng các vấn đề đã được nhận biết và có điều gì đó đang được làm để giải quyết chúng. Những vẫn chẳng có gì thực sự quan trọng xảy ra hết; ngoại trừ cả những nhà lãnh đạo lẫn lương tâm dẫn dắt đã hết cảm giác của họ cũng như mong muốn sống sót của họ, đang làm ra vẻ như biết rõ con đường và đang tiến bước đúng hướng.

Một giải thích khác là tính tư lợi mà hệ thống sinh ra khiến cho các nhà lãnh đạo đánh giá thành đạt cá nhân cao hơn nhiều so với trách nhiệm xã hội. Chẳng còn là điều gây choáng nữa khi các nhà lãnh đạo chính trị và những người điều hành kinh tế đưa ra những quyết định có vẻ thiên về lợi thế cho họ, mà đồng thời lại gây hại và nguy hiểm cho cộng đồng. Thực vậy, nếu tư lợi là một trong những trụ cột của đạo đức thực hành đương thời, vậy thì tại sao họ lại phải hành động khác đi? Có vẻ như họ không biết rằng lòng tham (cũng giống như thói phục tùng) khiến cho người ta trở thành ngu xuẩn trong việc mưu cầu ngay cả lợi ích riêng thực sự của họ, như là lợi ích trong cuộc sống của chính họ và trong cuộc sống của vợ con họ. Đồng thời công chúng nói chung lại cũng rất tư lợi, chỉ lo đến công chuyện riêng mà ít chú ý tới mọi thứ vượt quá vương quốc cá nhân riêng tư.

Ngoài những giải thích đó về tính thụ động đầy định mệnh của con người liên quan đến chuyện sinh tử, vẫn còn một giải thích nữa vốn là lý do khiến Fromm viết cuốn sách này. Fromm có ý muốn nói tới định kiến cho rằng chúng ta chẳng có lựa chọn nào khác nữa ngoài những mô hình như chủ nghĩa tư bản hợp tác, chủ nghĩa xã hội dân chủ, hay chủ nghĩa xã hội kiểu Liên Xô, hay "chủ nghĩa phát xít với khuôn mặt mỉm cười" mang tính kỹ trị.

Ông cho rằng tính phổ biến của quan điểm này phần nhiều do sự kiện là có ít nỗ lực nghiên cứu tính khả thi của những mô hình xã hội hoàn toàn mới mẻ và thí nghiệm với chúng. Quả thực là chừng nào mà những vấn đề cải tạo xã hội còn chưa được những trí tuệ tốt nhất của loài người quan tâm tới với khoa học và kỹ thuật, thì sẽ thiếu trí tưởng tượng để hình dung ra những lựa chọn khác mới mẻ và hiện thực. Nội dung tác phẩm Sở hữu hay hiện hữu? khẳng định rằng chỉ có thể ngăn chặn được thảm họa cho loài người, nếu có được thay đổi căn bản trong trái tim con người để lựa chọn đúng đắn giữa hai kiểu mẫu sống: kiểu mẫu sở hữu hay kiểu mẫu hiện hữu.

Fromm đưa ra hai kiểu mẫu sống: kiểu mẫu sở hữu (mối quan hệ của tôi với thế giới là sở hữu và chiếm hữu, là kiểu mẫu sống muốn biến mọi người và mọi vật, bao gồm cả bản thân mình, thành tài sản của mình) và kiểu mẫu hiện hữu (hoặc tương phản với sở hữu và có nghĩa là đầy sinh động và liên hệ xác thực với thế giới; hoặc tương phản với làm duyên làm dáng bề ngoài, có ý nói tới thái độ sống với bản chất đích thực, chân hiện thực của một người hay một sự vật).

Fromm nhận xét rằng về phương diện ngôn ngữ, điều khẳng định "tôi có một chiếc xe" có ý nghĩa hiện thực; nhưng người ta cũng còn nói "tôi có một ý tưởng", điều khẳng định này không có ý nghĩa hiện thực mà là trừu tượng hóa một hành động: suy nghĩ và quan niệm một điều gì đó. Hành động tư duy đầy sinh khí của con người bị trừu tượng hóa thành một đồ vật để sở hữu, cái vốn thuộc nội tâm bị ném ra bên ngoài trong quá trình khách thể hóa, trở thành một thứ xa lạ.

Các triết gia như Parmenides, Plato xem ý tưởng (idea) là một hiện thực cơ bản, từ đó kết luận rằng tồn tại (being) là một thực chất (substance) vĩnh cửu và không biến đổi. Fromm bác bỏ điều này: "Nếu ý tưởng về tình yêu (trong ý nghĩa của Plato) lại hiện thực hơn trải nghiệm yêu thương, thì người ta có thể bảo tình yêu là một ý tưởng vĩnh cửu và không biến đổi. Nhưng nếu chúng ta khởi đầu từ hiện thực của những hữu thể con người đang hiện hữu, đang yêu thương, đang căm ghét, đang đau khổ, thì chẳng có tồn tại nào mà lại không đồng thời đang hình thành và đang biến đổi... Biến đổi và sinh trưởng là những phẩm tính cố hữu của quá trình sống." (Sở hữu hay hiện hữu?). Fromm cũng đồng tình với khái niệm vô thường của Phật giáo, khẳng định không có gì là bền vững mãi mãi.

Fromm đưa ra hai kiểu mẫu sống: kiểu mẫu sở hữu và kiểu mẫu hiện hữu.

1) Kiểu mẫu sống sở hữu là kiểu sống mà mối quan hệ của tôi với thế giới là sở hữu và chiếm hữu, là kiểu mẫu sống muốn biến mọi người và mọi vật, bao gồm cả bản thân mình, thành tài sản của mình.

2) Trong kiểu mẫu sống hiện hữu có hai hình thức hiện hữu. Một hình thức là tương phản với sở hữu và có nghĩa là đầy sinh động và liên hệ xác thực với thế giới. Hình thức kia là tương phản với làm duyên làm dáng bề ngoài, có ý nói tới thái độ sống với bản chất đích thực, chân hiện thực của một người hay một sự vật.

Ý tưởng về kiểu mẫu sống sở hữu của Fromm cũng rất phù hợp với bàn luận của Berdyaev về mẫu hình "gã tư sản". Berdyaev đã viết: "Gã tư sản trong ý nghĩa siêu hình học là con người chỉ tin chắc vào thế giới của những đồ vật khả dĩ nhìn thấy được, là những thứ buộc anh ta phải thừa nhận và anh ta muốn chiếm giữ địa vị vững chắc trong cái thế giới ấy. Anh ta là nô lệ cho cái thế giới nhìn thấy được và cho ngôi thứ của các địa vị được thiết lập trong thế giới ấy. Anh ta đánh giá những con người không căn cứ vào việc họ là những người thế nào, mà căn cứ vào những gì họ có được. Gã tư sản là công dân của cái thế giới ấy, anh ta là chúa tể của trần gian. Chính là gã tư sản đã nghĩ ra chuyện trở thành chúa tể của trần gian. Sứ mệnh của anh ta là ở trong chuyện này." (Bàn về nô lệ và tự do của con người).

Fromm là nhà phân tâm học, ông nghiên cứu thể hiện khác biệt trong cuộc sống của hai kiểu mẫu tinh thần trong một số hành vi thường ngày của con người:

1. Trò chuyện

Xem xét một cuộc tranh luận giữa hai người, một người (A) có ý kiến X, một người khác (B) giữ ý kiến Y. Mỗi người đều đồng nhất bản thân mình với ý kiến mà mình giữ. Mỗi người chỉ lo tìm những luận cứ hợp lý lẽ để bảo vệ cho được ý kiến của mình. Không thể nào kỳ vọng mỗi người thay đổi ý kiến của mình, bởi vì ý kiến là sở hữu của họ mà nếu mất đi thì có nghĩa là họ bị nghèo đi.

Tình hình có thể khác hơn, nếu cuộc trò chuyện không có nghĩa là một cuộc tranh luận. Liệu có ai còn chưa hề trải nghiệm một cuộc gặp gỡ với một nhân vật nổi tiếng, danh giá, hay thậm chí quả thực có những phẩm tính cao đẹp, hoặc giả với một người mà mình trông đợi sẽ giúp mình có được thứ gì đó: một công việc tốt, một sự quý mến hay ái mộ? Trong những trường hợp như thế người ta có xu hướng ít nhất cũng hơi lo âu, và thường lo "chuẩn bị" bản thân mình cho cuộc gặp quan trọng. Người ta suy nghĩ về những đề tài câu chuyện khả dĩ gây chú ý cho người kia; họ nghĩ trước xem nên mở đầu câu chuyện thế nào; vài người còn phác họa trước toàn bộ cuộc trò chuyện về phần mình. Họ cũng tự củng cố tinh thần cho mình bằng cách nghĩ về những gì họ đang có: những thành đạt trong quá khứ của họ, phong cách khả ái của họ (hoặc phong cách hù dọa của họ nếu vai diễn ấy hiệu quả hơn), địa vị xã hội của họ, những mối quan hệ của họ, vẻ bề ngoài cũng như trang phục của họ.

Tóm lại là họ hình dung trong đầu một sự cân đo giá trị của họ và dựa trên sự định giá ấy mà họ phô bày các hàng hóa của mình ra trong cuộc trò chuyện. Nhiều người rất tài giỏi chuyện này và gây ấn tượng được cho khá nhiều người, dù cho ấn tượng mà họ tạo nên chỉ giúp ích phần nào thôi, còn thực ra phần lớn thành công của họ là do xét đoán của những người khác không được tinh tường cho lắm. Tuy nhiên, nếu người thực hiện không thật thông minh, cuộc trò chuyện sẽ thành gượng gạo, ngụy tạo, tẻ nhạt và không gây chú ý được bao nhiêu.

Tình hình sẽ hoàn toàn khác hẳn, khi những người tham dự cuộc trò chuyện không chuẩn bị trước gì hết, không lo củng cố bản thân mình bằng bất cứ kiểu gì. Thay cho những chuyện ấy họ ứng đáp tự phát và đầy bổ ích; họ quên đi bản thân mình, quên đi những tri thức và địa vị mà họ có. Cái "tôi" không cản đường họ, chính nhờ vậy mà họ có thể ứng đáp trọn vẹn đối với người khác cũng như những ý tưởng của người khác. Họ làm nảy sinh ra những ý tưởng mới, bởi vì họ không bám víu vào cái gì hết nên mới có thể tạo dựng và hiến tặng.

Trong khi những người thuộc kiểu mẫu sở hữu chỉ trông cậy vào những gì họ sở hữu, thì những người thuộc kiểu mẫu hiện hữu lại dựa trên sự kiện là họ đang hiện hữu, là họ đang sống thật, là một thứ gì đó mới mẻ sẽ ra đời, chỉ cần họ có can đảm dám để cho nó sinh ra, dám ứng đáp. Họ hoàn toàn sống thật bước vào cuộc trò chuyện, bởi vì họ không bóp nghẹt bản thân họ bởi mối quan tâm lo lắng cho những gì họ sở hữu. Khí chất sống thật của họ có tính lây lan và thường hỗ trợ cho những người khác vượt lên trên khí chất vị kỷ của mình. Nhờ vậy mà cuộc trò chuyện không còn là cuộc trao đổi hàng hóa (thông tin, tri thức, danh phận) và trở thành cuộc đối thoại trong đó chuyện ai có lý hơn không còn là vấn đề nữa. Hai người so kiếm bắt đầu khiêu vũ cùng nhau và chia tay nhau mà không có chiến thắng hay buồn rầu, vốn là những thứ vô bổ, nhưng họ sẽ cùng có được niềm vui.

2. Đọc sách

Cái gì đúng cho cuộc trò chuyện thì cũng đúng cho việc đọc sách vốn là - hay phải là - một cuộc trò chuyện giữa tác giả và độc giả. Lẽ dĩ nhiên trong đọc sách (cũng như trong cuộc trò chuyện) tôi đọc tác giả nào (hay trò chuyện với ai) là điều quan trọng. Đọc tiểu thuyết rẻ tiền là một hình thức ngủ ngày, nó không đem lại phản ứng bổ ích, văn bản được ngốn ngấu như xem phim truyền hình, hay giống như nhai "chip" khoai tây chiên trong lúc xem truyền hình.

Tuy nhiên, một cuốn tiểu thuyết, thí dụ như của Balzac, thì có thể đọc một cách bổ ích với sự tham dự của nội tâm - tức là trong kiểu mẫu hiện hữu. Thế nhưng nó cũng rất thường hay được đọc trong kiểu mẫu sở hữu. Trí tò mò của họ được khơi gợi, các độc giả muốn biết được âm mưu: liệu nhân vật chính của họ có chết hay không, họ muốn biết câu trả lời. Trải nghiệm của họ đạt đỉnh điểm, khi họ biết được kết thúc, có hậu hay không có hậu, tức là họ sở hữu được toàn bộ câu chuyện, tựa hồ như thực sự sở hữu nó, khi họ lục lọi tìm trong trí nhớ của họ. Thế nhưng họ không hề nâng cao được tri thức của mình, họ không thấu hiểu được nhân vật trong tiểu thuyết nên không thể thấu hiểu nhiều hơn bản chất con người, hay thu nhận được tri giác về bản thân mình.

Các kiểu cách đọc sách triết học hay lịch sử cũng hệt như vậy. Cách thức một người đọc sách triết học hay lịch sử được hình thành - hay bị làm méo mó - bởi nền giáo dục. Nhà trường nhắm tới mục đích trao cho mỗi học viên một số lượng nhất định "tài sản văn hóa", và cuối khóa học chứng nhận cho các học viên như ít nhất đã có được một lượng tối thiểu tài sản. Các học viên được dạy cho đọc một cuốn sách, sao cho họ có thể nhắc lại được những ý tưởng chính của tác giả. Đó là cách thức các học viên "hiểu biết" Plato, Aristotle, Descartes, Spinoza, Leibniz, Kant, Heidegger, Sartre. Sự khác biệt giữa các trình độ giáo dục khác nhau từ cao đẳng đến đại học chủ yếu là số lượng tài sản văn hóa được đòi hỏi; số lượng tài sản này cũng phù hợp đại khái với số lượng tài sản vật chất mà các học viên có thể kỳ vọng sẽ được sở hữu trong cuộc sống sau này.

Cái được gọi là những học viên xuất sắc là những người có thể nhắc lại một cách chỉn chu nhất mỗi một người trong các triết gia khác nhau đã nói gì. Họ giống như những hướng dẫn viên được thông tin đầy đủ trong viện bảo tàng. Cái mà họ chưa được học chính là những gì vượt ra ngoài cái thứ tài sản tri thức ấy. Họ chưa học được việc tra vấn các triết gia, trò chuyện với họ; họ chưa học ý thức được những mâu thuẫn của chính các triết gia, ý thức được việc họ bỏ lại những vấn đề nhất định hoặc tránh né vấn đề; họ chưa học phân biệt được giữa những gì là mới mẻ và những gì mà các tác giả không đề cập đến vì đó là ý kiến thịnh hành vào thời của các triết gia ấy; họ chưa học lắng nghe được để có khả năng phân biệt khi nào các tác giả phát biểu từ bộ óc và khi nào thì bộ óc và trái tim của các tác giả cùng phát biểu; họ chưa học được để phát hiện ra liệu các tác giả là khả tín hay trá ngụy; và còn biết bao nhiêu điều khác nữa.

Các độc giả thuộc kiểu mẫu hiện hữu thường đi đến kết luận rằng ngay cả cuốn sách được ca ngợi nhiều, cũng có khi là cuốn sách chẳng có giá trị hay chỉ có giá trị hạn chế. Hoặc là họ có thể hiểu được cuốn sách thật đầy đủ, đôi khi còn hơn cả tác giả, vốn là người thường xem mọi thứ mình viết ra đều có tầm quan trọng như nhau.

3. Thực thi quyền uy

Theo Fromm, quyền uy (authority) là một từ ngữ mơ hồ với hai nghĩa khác nhau: quyền uy hợp lý (rational authority) và quyền uy phi lý (irrational authority). Quyền uy hợp lý đặt cơ sở trên năng lực và giúp người ta dựa vào để phát triển. Quyền uy phi lý dựa vào sức mạnh để bóc lột người bị thần phục.

Hầu như mọi người trong cuộc đời mình đều có thực thi quyền uy, ít nhất cũng trong việc nuôi dạy con cái.

Quyền uy trong kiểu mẫu hiện hữu không chỉ đặt cơ sở trên năng lực cá nhân để thực hiện một chức năng xã hội nhất định, mà còn đặt cơ sở ở ngay chính trong tư chất của nhân cách (essence of personality) đã phát triển ở trình độ cao. Những nhân vật như thế tỏa sáng quyền uy mà không ra lệnh, đe dọa, ăn hối lộ. Họ là những cá nhân đã phát triển cao, biểu thị ra bằng sự thể hiện bản chất họ là gì và con người có thể là gì, chứ không phải chủ yếu bằng những gì họ làm hay họ nói. Các bậc hiền triết đã từng là những quyền uy như thế. Những cá nhân như thế ở mức độ thấp hơn cũng có thể tìm thấy trong các trình độ giáo dục ở những nền văn hóa đa dạng rất khác biệt nhau.

Trong các xã hội thô lậu xưa kia quyền uy thường thuộc về người có năng lực thực hiện nhiệm vụ. Với các xã hội dựa trên ngôi thứ và quy mô rộng lớn hơn thì tình thế phức tạp hơn nhiều, quyền uy do khả năng bị thay thế bởi quyền uy do danh phận xã hội. Nhưng điều này không có nghĩa rằng quyền uy đang hiện tồn nhất thiết là không có năng lực. Năng lực không phải là yếu tố thiết yếu của quyền uy. Trên thực tế hầu như không có mối quan hệ nào giữa năng lực và quyền uy, tình trạng này hiện hữu trong các hình thức khác nhau của hệ thống xã hội được biết đến cho tới nay.

Tuy nhiên, có những vấn đề rất nghiêm trọng trong các trường hợp quyền uy thiết lập trên nền tảng năng lực nào đó: một nhà lãnh đạo có thể có năng lực trong lĩnh vực này, nhưng lại không có năng lực trong lĩnh vực kia - thí dụ như một chính khách có thể có năng lực trong việc tiến hành cuộc chiến tranh, nhưng không có năng lực trong tình trạng hòa bình; hoặc là một nhà lãnh đạo trung thực và can đảm vào lúc khởi đầu sự nghiệp lại mất đi những phẩm tính ấy do bị quyền lực quyến rũ; hoặc là những rắc rối do tuổi tác và sức khỏe có thể dẫn đến hư hỏng. Cuối cùng, chúng ta thấy rằng các thành viên của một bộ lạc bé nhỏ xét đoán hành vi của một quyền uy sẽ dễ dàng hơn nhiều, so với hàng triệu người trong hệ thống của chúng ta bây giờ: chúng ta biết ứng viên cho quyền uy chỉ bằng một hình ảnh tạo ra bởi các chuyên gia về các quan hệ với công chúng.

Dẫu cho các phẩm tính năng lực bị mất đi vì nguyên nhân nào đi nữa trong các xã hội rộng lớn có tính ngôi thứ, thì kết quả cũng là xảy ra việc quyền uy bị làm cho thành xa lạ (alienation). Năng lực khởi thủy, có thực hay được cho là thế, nay được chuyển giao cho bộ đồng phục hay cho danh hiệu của quyền uy, cái ký hiệu bề ngoài ấy của quyền uy thay thế cho năng lực thực sự cùng những phẩm tính của nó. Nhà vua - đang sử dụng danh hiệu ấy như một biểu tượng cho loại quyền uy này - có thể ngu xuẩn, tội lỗi, độc ác, tức là hoàn toàn không có năng lực để (to be) có một quyền lực, nhưng vẫn có được (to have) quyền lực. Chừng nào hắn ta còn có danh hiệu, hắn vẫn được xem là có các phẩm tính của năng lực. Ngay cả khi nhà vua đang cởi truồng, thì mọi người vẫn tin là nhà vua đang mặc quần áo đẹp.

Chuyện này không phải là thứ gì đó tự nhiên xảy ra. Những kẻ sở hữu những biểu tượng ấy của quyền uy và những kẻ được lợi từ chuyện này ắt phải làm cho tư duy phê phán hiện thực của các dân chúng-thần dân bị cùn nhụt, mờ tối đi, để khiến cho họ tin vào chuyện bịa đặt. Bất cứ ai suy nghĩ về chuyện này đều biết những mưu toan của tuyên truyền, những phương pháp làm cho xét đoán phê phán bị phá hủy, dùng cách nào để những lời sáo rỗng ru ngủ khiến cho trí óc bị quy phục, làm sao để dân chúng phải câm nín do bị phụ thuộc và mất đi khả năng tin vào những gì nhìn thấy sờ sờ trước mắt cũng như mất đi khả năng xét đoán. Dân chúng tin vào chuyện bịa đặt nên bị mù trước hiện thực.

3. Có tri thức (having knowledge) và tri giác (knowing)

Sự khác biệt giữa kiểu mẫu sở hữu và kiểu mẫu hiện hữu trong lĩnh vực tri giác thể hiện qua hai cách diễn đạt: "tôi có tri thức" và "tôi tri giác". Có tri thức hàm nghĩa chiếm đoạt và sở hữu một tri thức khả hữu; tri giác mang tính chức năng và chỉ là phương tiện trong một quá trình tư duy có hiệu quả.

Theo quan điểm của nhiều nhà hiền triết thì tri giác trong kiểu mẫu hiện hữu khởi sự với việc ý thức được tính trá ngụy của cảm nhận tri giác thông thường đang thịnh hành, tức là ý thức được rằng bức tranh hiện thực vật thể của chúng ta không tương ứng với cái "hiện thực đích thực", chủ yếu hàm ý rằng đa số mọi người còn chưa ý thức được sự thực: điều mà họ cứ tưởng là chân lý và hiển nhiên, thực ra lại chỉ là ảo giác. Như vậy tri giác bắt đầu bằng việc đập tan ảo giác, rồi xuyên thấu qua bề mặt để đi tới gốc rễ, tức là đi tới những nguyên nhân. Các nhà hiền triết không cho rằng mục đích của tri giác là nhắm tới xác định "chân lý tuyệt đối", tức là thứ gì đó khiến ta cảm thấy an toàn với nó, họ chỉ xem tri giác như một quá trình tự khẳng định của lý trí con người (the self-affirmation process of human reason). Tri thức tối ưu trong kiểu mẫu hiện hữu là tri giác sâu hơn; còn trong kiểu mẫu sở hữu là có nhiều tri thức hơn nữa.

Fromm nhận xét rằng nói chung nền giáo dục cố huấn luyện con người có được tri thức như một sở hữu. Học viên nhận được một lượng tri thức tối thiểu cần thiết để có thể thực hiện công việc trôi chảy. Nhà trường là những công xưởng sản xuất ra những kiện hàng tri thức tổng thể.

5. Niềm tin

Trong ý nghĩa tôn giáo, chính trị, hay trong ý nghĩa thông thường, khái niệm niềm tin có hai nghĩa hoàn toàn khác nhau, tùy thuộc theo nó được sử dụng trong kiểu mẫu sở hữu hay kiểu mẫu hiện hữu.

Niềm tin trong kiểu mẫu sở hữu là sở hữu một lời giải đáp mà không có chứng minh duy lý nào cho nó. Nó bao gồm những diễn đạt do những người khác (thường là bộ máy quan liêu) tạo ra. Nó đem lại cảm nhận chắc chắn do sức mạnh (thực hay ảo) của bộ máy quan liêu. Đây là tấm vé gia nhập vào nhóm đông người. Nó làm giảm nhẹ đi trách nhiệm cá nhân trong tư duy và trong việc đưa ra những quyết định. (Như Đại pháp quan của Dostoevsky trong tiểu thuyết Anh em nhà Karamazov làm nhẹ gánh nặng tự do lựa chọn theo lương tâm cho đám đông yếu đuối). Niềm tin trong kiểu mẫu sở hữu tự cho nó là tri thức vững chắc tối hậu, nó là khả tín do sức mạnh của những người truyền bá và bảo hộ nó. Có ai mà lại không lựa chọn sự chắc chắn, nếu chỉ cần giao nộp độc lập của mình là đủ?

Niềm tin trong kiểu mẫu hiện hữu trước hết không phải là niềm tin vào một ý tưởng nhất định, mặc dù cũng có thể là như vậy. Nhưng chủ yếu đó là một định hướng nội tâm, một tâm thế (attitude). Thí dụ như tôi tự tin vào bản thân, tin vào người khác, tin vào nhân loại, tin vào khả năng con người có thể trở nên nhân bản đầy đủ. Niềm tin như thế cũng chứa đựng sự chắc chắn, nhưng đó là sự chắc chắn đặt cơ sở trên trải nghiệm của riêng tôi, chứ không phải phục tùng theo một quyền uy áp đặt cho tôi một niềm tin nhất định. Đây là sự chắc chắn về một sự thật không thể chứng minh được một cách duy lý với bằng chứng rõ ràng, đó vẫn chỉ là sự thật mà tôi cảm thấy chắc chắn do bằng chứng chủ quan qua trải nghiệm của riêng tôi mà thôi.

Nguyễn Văn Trọng

[1] Có lẽ E. Fromm định nói tới xã hội Tây Đức và Thụy Sĩ những năm 70-80 của thế kỷ XX. (ND)
Nguồn: tiasang.com.vn
Xem thêm: 'Erich Fromm – Thuyết nhân cách xã hội'
Previous Post
Next Post