Xưa nay chân lý là mục tiêu cho
sự tìm kiếm không dừng của người học đạo, nhưng người cảm nhận chân lý thực sự
thì không nhiều. Trước hết người học cần hiểu rõ CHÂN LÝ LÀ GÌ? Theo định nghĩa
thông thường, chân lý tức lẽ thật không dời đổi, vượt suốt thời gian và không
gian, nghĩa là luôn luôn đúng ở mọi lúc, mọi chỗ. Nói lẽ thật mà còn thay đổi
hoặc giới hạn chỗ nơi thì chưa đúng hẳn là chân lý. Hoặc chân lý mà còn chia ra
chân lý của anh, chân lý của tôi, đó là còn mang những thành kiến, thì cũng
chưa phải thật chân lý trọn vẹn, vì nó không phải chân thật luôn luôn mà nó chỉ
chân thật ở chỗ này nhưng không chân thật ở chỗ kia nếu chấp vào. Nếu chấp vào
đó tức thường tranh cãi mãi. Như câu chuyện bọn người mù sờ voi:
Có ông vua muốn thử xem chỗ nhận
hiểu của những người mù, bèn cho đem con voi đến trước sân và gọi một số người
mù đến bảo diễn tả con voi cho ông nghe. Bọn người mù tranh nhau đến rờ con
voi, người rờ trúng cái chân nói con voi giống cây cột; người rờ trúng bụng nói
con voi giống cái lu, người rờ trúng đuôi nói con voi giống cây chổi, người rờ
trúng tai nói con voi giống cây quạt…, rồi cãi nhau inh ỏi. Ông vua chỉ cười.
Người nào cũng chấp chỗ thấy của
mình là chân lý nhưng lại cãi nhau inh ỏi, thì quả tang chưa phải chân lý thật
sự. Theo nhà Phật, cho cái thấy của mình là chân lý, e chưa phải, vì nó có mang
cái “tôi” hạn hẹp trong đó. Đây là điểm cần nhận định kỹ.
2. Chân lý ở đâu
Lâu nay những người học đạo
thường đi tìm chân lý nhưng tìm từ bên ngoài nên không bao giờ thấy thỏa mãn;
nếu có, chỉ thấy ở một khía cạnh nào đó chớ không trọn vẹn. Trong khi chân lý
lại vốn ở ngay nơi mình. Bởi nói là LÝ, thì cái LÝ đó nó có biết gì? Chính Tâm
mới biết rõ được LÝ, mới là cái LÝ SỐNG. Mà tâm không chân thật, không sáng tỏ, làm sao thấy được sáng tỏ, chân
thật? Do đó, phải xoay lại tự tâm, sáng tỏ tự tâm thì rõ chân lý.
Đây là điểm trọng yếu mà lâu nay
người thường bỏ quên. Chẳng hạn tâm hư nguỵ, tâm nhân ngã cao thấp hơn thua thì
thấy gì cũng hư nguỵ, cao thấp, hơn thua chứ gì! Như câu Phật nói: “Thiên
thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”, trên trời dưới đất, chỉ ta tôn nhất, nếu đem
tâm chấp ngã mà hiểu, sẽ cho là Phật quá ngã mạn, tự thấy mình trên hết thiên
hạ, không ai bằng. Đó là phỉ báng Phật, không thấy được lẽ thật. Đâu biết rằng
câu này ngầm nhắc người giác ngộ một lẽ thật siêu việt thế gian, vượt qua cái
hư dối giả tạo. Đó là một ý nghĩa rất thâm thúy.
Trong nhà thiền có câu chuyện.
Một hôm Tô Đông Pha đến chùa Kim Sơn tham thiền với thiền sư Phật Ấn. Sau giờ
thiền ông hỏi Sư:
- Thiền sư! Ngài xem dáng tôi
ngồi thế nào?
Thiền sư Phật Ấn đáp:
- Rất trang nghiêm giống một vị
Phật.
Ông rất cao hứng. Thiền sư Phật
Ấn hỏi lại ông:
- Học sĩ! Ông xem tư thế tôi ngồi
như thế nào?
Tô Đông Pha lâu nay có dịp là đùa
với Sư nên liền đáp:
- Giống một cục cứt trâu.
Thiền sư Phật Ấn nghe xong cũng
rất cao hứng. Nhưng Tô Đông Pha thấy Thiền sư bị mình dụ là cục cứt trâu mà
không đáp lại, trong tâm cho là mình thắng Thiền sư Phật Ấn nên gặp người liền
nói:
- Hôm nay tôi thắng rồi!
Tin tức truyền đến tai cô em là
Tô Tiểu Muội, cô em mới hỏi ông:
- Này anh! Anh rốt ráo làm sao
thắng được thiền sư?
Tô Đông Pha hứng chí thuật lại
cuộc đối đáp trên. Tô Tiểu Muội thiên tư cũng rất thông minh hơn người, sau khi
cô nghe ông thuật lại xong, liền nghiêm mặt lại nói:
- Anh ơi, anh thua rồi! Trong tâm
Thiền sư như Phật, do đó Ngài xem anh như Phật; trái lại, trong tâm anh giống cứt
trâu, do đó anh mới xem Ngài giống cứt trâu.
Tô Đông Pha liền ú ớ mới biết
công phu về Thiền của mình còn thua xa Thiền sư Phật Ấn.
(Tinh Vân Thiền Thoại)
Câu chuyện thật có nhiều ý nghĩa.
Thiền sư Phật Ấn ngồi thiền mà giống cục cứt trâu sao? Rõ ràng bởi tâm ông Tô
Đông Pha còn xen niệm hơn thua trong đó mà thành ra có cái thấy ấy. Muốn hạ
thấp người, không ngờ tâm mình đã lộ tướng thấp kém trước. Gọi đó là chân lý
được sao? Muốn thấu chân lý phải biết xoay lại chính mình, tìm ngay trong chính
mình. Kinh nghiệm của Đức Phật, ban đầu Ngài theo học với các vị thầy tiếng tăm
nhưng cuối cùng đều không thỏa mãn, đành từ giã hết, đến ngồi thiền định dưới
cội Tất-bát-la, tự soi lại mình mà tự giác ngộ, thấy tột lẽ thật của thế gian
và xuất thế gian.
Kinh Hoa Nghiêm nói, có một quyển
Kinh chép đủ mọi việc trong thế giới tam thiên đại thiên, tức trong vũ trụ này,
được nhét trong hạt bụi. Người có trí thấy được, bèn đập hạt bụi lấy quyển kinh
ra, liền hiểu thấu mọi việc.
Quyển kinh đó, chỉ cho những lẽ
thật, hạt bụi chỉ cho thân tâm này. Ngay thân tâm này khéo đập ra , lấy quyển
kinh kia, liền thấu rõ những lẽ thật trong thế gian. Cho nên chân lý của thế
gian đã nhét sẵn trong thâm tâm mỗi chúng ta đây thôi, khỏi phải tìm đâu xa.
Một câu chuyện Thiền của Nhật
Bản: Có bà nọ đến nghe Thiền sư Bạch Ẩn thuyết giảng rằng: “Tâm tịnh thì cõi
nước thanh tịnh, đức Phật trong mỗi chúng sinh: Một khi Đức Phật xuất hiện, mọi
vật trên thế gian đều chiếu ánh quang minh. Nếu ai muốn nhận được đều này, phải
phản quan tự kỷ, đến chỗ nhất tâm bất loạn. Vì tâm tịnh tức độ tịnh, thì làm
sao để trang nghiêm tịnh độ? Vì Phật vốn sẵn trong mỗi chúng sinh thì tướng tốt
và vẻ đẹp của Phật là gì?”
Nghe xong, bà nghĩ: “Điều đó
không quá khó”. Trở về nhà bà bắt đầu quán chiếu suốt ngày đêm đeo đuổi mãi
trong tâm dù ngủ hay thức.
Rồi một hôm, khi đang rửa nồi, bà
thình lình tỏ ngộ. Ném cái nồi qua bên, bà đến gặp Bạch Ẩn và nói:
- Tôi bổng gặp đức Phật trong
thân tôi. Mọi vật rạng ngời ánh sáng. Thật kỳ diệu! Kỳ diệu!
Bà rất vui sướng. Chợt Bạch Ẩn
bảo:
- Bà nói như thế, nhưng còn cái
hầm phân thì sao? Nó có chiếu sáng không?
Bà liền bước lên và đấm vào Bạch
Ẩn, nói:
- Ông già này chưa ngộ.
Bạch Ẩn cười to.
Trong đây cho thấy, tâm sáng thì
thấy cái gì cũng sáng, thấy hầm phân cũng sáng, nhìn tất cả đều sáng ngời. Xét
lại mình, tại sao có khi mình thấy huynh đệ cùng tu hành, cùng chung lý tưởng
với nhau, lại không sáng? Thấy ghét người này, thành kiến với người kia đó là
do đâu? Cần nhìn lại tâm mình lúc đó thì rõ ngay lẽ thật!
Một Thiền sư hiệu Thủy Lại đến
hỏi Mã Tổ Đạo Nhất
- Thế nào là ý Tổ sư từ Ấn Độ
sang?
Mã Tổ đạp ngay ngực té nhào. Sư
bỗng nhiên đại ngộ, đứng dậy vỗ tay cười to, nói: “Lạ thay! Trăm ngàn tam muội,
vô lượng diệu nghĩa chỉ ở trên đầu sợi lông thấu tột tất cả cội nguồn”.
Tức ngay một niệm hiện tiền đây,
sáng tỏ lên, là thấu tất cả mọi ý nghĩ nhiệm mầu. Chân lý chính ở ngay trong
đó, lo suy tìm, moi móc, chia chẻ chữ nghĩa hẳn không thể thấy.
3. Tâm thể là chân lý trên hết
Dù cho người học đạo hiểu lý này,
lý nọ cao siêu đến đâu, cũng chỉ là cái LÝ BỊ HIỂU, chưa phải bản thân chân lý.
Nếu rời ngoài tâm mà có, đó cũng là LÝ CHẾT, có nghĩa gì? Người học bám vào đó,
là bám vào cái chết, đâu thể vội hài lòng! Chính “tâm thể” mới là lý rốt ráo
trên hết. Người tu không tỏ ngộ tâm thể, là chưa đạt đến rốt ráo chân thật.
Trong Huyết Mạch Luận, Tổ sư đã nói: “Nếu thấy bản tánh thì mười hai bộ kinh
thảy là văn tự suông; ngàn bộ kinh, muôn quyền luận chỉ làm sáng tỏ tâm. Ngay
lời nói khế hợp thì Giáo (Kinh điển) sẽ dùng vào đâu?” Nghĩa là, nhận ra bản
tánh hay tỏ ngộ tâm thể chính mình, đó là gốc của tất cả kinh luận, là cội
nguồn của hết thảy giáo lý. Chẳng rõ cội nguồn này mà đi tìm theo ngọn ngành
bên ngoài, là đi theo chân lý chết, khó đạt đến viên mãn.
Vua Lương Võ Đế từng hỏi Tổ Bồ Đề
Đạt Ma:
- Thế nào là thánh đế đệ nhất
nghĩa?
Tổ Đạt Ma đáp:
- Rỗng thênh không Thánh.
Hỏi thánh đế đệ nhất nghĩa, tức
hỏi đến lý rốt ráo cùng tột. Song, nếu có một cái lý rốt ráo gì đó cho ông
hiểu, tức còn có một cái ở trên đó để hiểu lại nó, vậy đâu còn là rốt ráo? Cho
nên Tổ Đạt Ma đáp thẳng: “Rỗng thênh không Thánh”, tức không có một chút gì là
Thánh, là cao tột để cho ông bám hiểu. Đây là Tổ đánh thẳng vào ngay vào chỗ
ông vừa hỏi, khỏi đi tìm thánh đế ở đâu khác, khỏi phải nghĩ ngợi thêm gì!
Một cuộc đối đáp giữa Đại đức Uẩn
Quang và Thiền sư Tuệ Hải càng làm sáng tỏ thêm việc này. Đại đức hỏi nhiều
việc, cuối cùng hỏi:
- Hư không hay sinh linh tri
chăng? Chân tâm duyên thiện ác chăng? Người tham dục là đạo chăng? Người chấp
phải quấy, về sau tâm thông chăng? Người xúc cảnh sinh tình, tâm có định chăng?
Người trụ chỗ yên lặng, có huệ chăng? Người ôm lòng khinh người, có ngã chăng?
Người chấp không chấp có, có trí chăng? Người tầm văn thủ chứng, người khổ hạnh
cầu Phật, người lìa tâm cầu Phật, người chấp tâm là Phật, trí này hợp đạo
chăng? Thỉnh thiền sư mỗi mỗi vì đáp:
Thiền sư Tuệ Hải đáp:
- Hư không chẳng sinh linh tri.
Chân tâm chẳng duyên thiện ác. Người chìm sâu trong tham dục, căn cơ cạn. Người
phải quấy lăng xăng, là chưa thông. Người xúc cảnh sinh tâm, là ít định. Người
yên lặng quên hết là huệ chìm. Người khinh người cao mạn, là ngã mạn. Người
chấp không chấp có, đều ngu. Người tầm văn thủ chứng, thêm kẹt. Người khổ hạnh
cầu Phật, là mê. Người lìa tâm cầu Phật, là ngoại đạo; chấp tâm là Phật, là ma.
Đại đức Uẩn Quang hỏi:
- Nếu như thế thì rốt ráo không
thể có gì?
Thiền sư Tuệ Hải đáp:
- Rốt ráo là Đại đức, chẳng phải
rốt ráo không thể có.
Tức là, khi sạch hết mọi chỗ bám
chấp từ bên ngoài, không còn chỗ để tâm duyên đến, còn lại đó là chính mình. Đó
là chỗ rốt ráo cuối tột của tất cả Lý. Lẽ thật sáng ngời như vậy, không ai đặt
ra cả. Người học đạo tìm chân lý là tìm trở lại ngay chỗ này, chớ nhọc chạy
lăng xăng tìm cầu ở bên ngoài, phí công nhiều.
4. Lìa niệm phân biệt, dám nhận sự thật
Bởi chân lý rốt ráo là ở ngay nơi
mình, trong chính mình nên không thuộc đối tượng hiểu biết. Chính vì vậy, dù cố
đem tâm phân biệt cũng đâu thể thành! Đâu thể đến! Do đó, trong nhà Thiền
thường cảnh tỉnh người học đạo đối với tâm này. Như chuyện thiền tăng Văn Đạo
với Thiền sư Tuệ Huân:
Văn Đạo nghe tiếng Thiền sư Tuệ
Huân nên trèo non lội suối đến trước hang động sư ở, thành khẩn thưa:
- Văn Đạo con vốn ngưỡng mộ cao
phong của thầy, một bề đến đây gần gũi theo hầu, xin thầy từ bi chỉ dạy!
Nhân lúc đó trời tối, Thiền sư
Tuệ Huân bảo:
- Trời tối rồi, hãy ở đây ngủ một
đêm.
Hôm sau, khi Văn Đạo thức dậy thì
Thiền sư Tuệ Huân đã dậy trước, nấu cháo xong. Đến lúc ăn, trong động không có
gì khác, thuận tay sư lấy cái sọ khô múc đầy cháo đưa cho Văn Đạo. Văn Đạo do
dự không biết nên nhận hay không. Sư liền bảo:
- Ông không có tâm đạo, chẳng
phải chân chính vì pháp mà đến. Ông còn đem vọng tình nhơ sạch và yêu ghét mà
tiếp vật, làm sao có thể được đạo?
Đây là Thiền sư muốn đánh thức
ông tăng, học đạo chân thật phải quên tâm phân biệt theo tình chấp ngã ấy. Phân
biệt theo tình chấp ngã thì thấy theo tình yêu ghét, hay dở, hơn thua, nghe nói
chuyện vuốt theo bản ngã là thích; trái lại, thì tự ái không muốn nghe. Học đạo
như thế thì làm sao học được lẽ thật. Học lẽ thật thì phải dám nhìn sự thật,
chấp nhận sự thật.
Tấm gương học đạo của tướng quốc
Đỗ Hồng Tiệm đời Đường. Ông đến hỏi Thiền sư Vô Trụ:
- Đệ tử tánh thức cạn cợn, trước
đây nhân công việc rảnh rỗi có soạn bản sớ giải về Luận Đại Thừa Khởi Tín gồm
hai quyển, có thể gọi là Phật pháp chăng?
Thiền sư Vô Trụ đáp:
- Xét về việc viết sớ giải đều là
dùng thức tâm nghĩ xét, phân biệt, có tạo tác, khởi tâm động niệm mới có thể
làm thành. Theo lời văn của bản luận ấy có nói: “Phải biết tất cả pháp từ xưa
đến nay lìa tướng ngôn thuyết, lìa tướng danh dự, lìa tướng tâm duyên, rốt ráo
bình đẳng không có đổi khác; vì chỉ có một tâm nên gọi là chân như”. Nay tướng
công kẹt tướng ngôn thuyết, kẹt tướng danh tự, kẹt tướng tâm duyên, đã kẹt các
thứ tướng, làm sao là Phật pháp?
Ông liền thưa:
- Đệ tử từng hỏi các bậc Đại đức
trong triều, các Ngài đều tán thán đệ tử là chẳng thể nghĩ bàn. Phải biết những
vị ấy thuận theo nhân tình. Nay thầy từ lý mà giải nói phù hợp với pháp tâm
địa, thật là chân lý không thể nghĩ bàn!
Tâm học đạo của ông tướng quốc Đỗ
Hồng Tiệm quả là cao quý, dám nhận sự thật trái ngược với nhân tình, không vì
những lời khen cho vui; xét lại người xuất gia cũng không dễ làm. Chính đó mới
thực sự là học lẽ thật, đến với chân lý.
5. Tóm kết
Người học đạo chân chính, phải
biết xoay lại chính mình, đó là điểm thiết yếu. Đây cũng là gốc của mọi pháp
tu.
Muốn thể nhận chân lý, phải quên
cái ta. Nói hay, nói giỏi đến đâu mà lộ bày tướng ngã quá nặng, còn tự kiêu ngã
mạn quá to, cũng là biểu lộ tướng vô minh, cần tự xét lại!
Đoạn nhân duyên vị tăng với Thiền
sư Duy Khoan là chỗ mỗi người học đạo phải luôn nghiệm kỹ:
Ông tăng hỏi sư:
- Đạo ở đâu?
Sư đáp:
- Đạo ở trước mắt.
Tăng hỏi:
- Sao con chẳng thấy?
Sư đáp:
- Vì ông còn có ngã.
Tăng hỏi:
Con có ngã nên con chẳng thấy,
Hòa thượng thấy chăng?
Sư đáp:
- Có ông, có ta cũng chẳng thấy
luôn.
Tăng hỏi:
- Không con, không Hòa thượng lại
thấy chăng?
Sư đáp:
- Không ông, không ta còn ai cần
thấy?
Rõ ràng, hễ thấy biết mà còn có
mang cái “tôi” xen vào là nhìn sự vật méo mó ngay. Một lời nói hay mà do người
mình không ưa nói ra thì sao? Mình cũng bịt tai, quay lưng không muốn nghe chứ
gì? Vậy là tại nó không đúng, hay tại cái gì?
Sạch hết tướng ta, tướng người,
ngay đó chân lý hiện tiền, còn muốn thấy gì nữa? Còn có lý để thấy, là còn mang
chút bóng dáng tướng ngã trong đó!
Mong rằng tất cả người học đạo
đều sáng tỏ trở lại chân lý nơi mình. Đó là nguồn sống vĩnh hằng không bao giờ
mất. Thật còn gì vui sướng hơn!