Nói vội vã đưa ta đi tới đâu?
Hành động vội vã đưa ta đi tới đâu? Suy nghĩ vội vã đưa ta đi tới đâu? Chúng
đưa ta đi tới với sai lầm, với thất vọng và khổ đau. Chúng đưa ta đi tới với
bệnh hoạn già nua và hủy diệt sự sống một cách nhanh chóng.
Sai lầm thì không có an toàn.
Thất vọng thì không còn có niềm tin để sống. Khổ đau thì sự sống héo mòn, bệnh
hoạn và nhanh chóng bị hủy diệt.
Tinh tấn trong Phật giáo không
phải là vội vã, ngay cả vội vã chứng đạo, vội vã về Tịnh độ hay vội vã làm
Phật. Tại sao? Vì đạo thì không có gì để vội vã. Tịnh độ là quê hương của chư
Phật, được tạo nên từ những chất liệu của tâm thức không vội vã. Và đã là Phật
thì không còn có bất cứ cái gì trước đó, sau đó và ngay đó để vội vã.
Người nào có tinh tấn, người đó
biết rất rõ trong đời sống của họ mỗi ngày cần phải làm gì và họ đã làm hết
lòng với công việc đó trong mỗi ngày, nhưng không vội vã. Không vội vã không có
nghĩa là chậm chạp. Hành động không vội vã, vì trong hành động ấy có chất liệu
của tuệ giác. Hành động có tuệ giác là hành động trầm tĩnh, sắc bén, linh hoạt
và sống động, nhưng hoàn toàn không vội vã.
Phật thì không còn vội vã, ngay
cả vội vã truyền đạo và vội vã giúp người khác chứng đạo. Kinh Phật đã nói cho
ta biết điều đó. Kinh nói rằng, sau khi đức Phật thành đạo, Ngài không có vội
vã chuyển Pháp luân mà Ngài đã dành một thời gian khá lâu để chiêm nghiệm những
gì Ngài mới chứng ngộ và sống với nó. Phật thì không còn bị giới hạn bởi không
gian và không còn bị thời gian hủy diệt, nên đời sống của Ngài là sống mà không
vội vã.
Và Ngài đã đem đời sống không vội
vã ấy để truyền dạy cho mọi người và hiến tặng cho hết thảy muôn loài. Các nhà
bác học hiện đại cũng vậy, họ nghiên cứu và làm các công việc của họ không vội
vã, và họ cũng không công bố những thành quả nghiên cứu của họ một cách vội vã.
Họ đã đem cái không vội vã để học tập, để nghiên cứu và cái thành quả không vội
vã ấy để hiến tặng cho đời.
Vậy, mục đích của chúng ta tu học
là để làm gì? Là để có khả năng nói được những lời nói không vội vã; để có khả
năng hành động không vội vã và để có khả năng tư duy không vội vã, quan trọng
nhất là có khả năng sống không vội vã và đem chất liệu không vội vã đó để hiến
tặng cho đời.
Nhờ có tư duy không vội vã, nên
trong đời sống hàng ngày, ta không vội vã khen ai và cũng không vội vã chê ai;
không vội vã theo ai và cũng vội vã chống đối ai; không vội vã ghét ai và cũng
không vội vã thương ai; không vội vã kiêu hãnh và cũng không vội vã tự ti.
Thương ai hay ghét ai trong vội
vã ta sẽ ân hận; khen ai hay chê ai trong vội vã ta sẽ ân hận; theo ai hay
chống đối ai trong vội vã ta sẽ ân hận; vội vã kiêu hành hay vội vã tự ti ta sẽ
ân hận,… Sống không vội vã, ta sẽ lấy được những hạt giống ân hận ra khỏi tâm
ta, ra khỏi nơi những lời nói và hành động của ta, và ra khỏi ngay nơi đời sống
của ta.
Ở trong đời, ai sống với tâm
không ân hận bởi những lời nói và bởi những hành động của mình, người đó có sức
mạnh, người đó có khả năng tự tin, người đó có hạnh phúc và người đó là người
thành công ngay trong cuộc sống này.
Trong mỗi ngày có hai mươi bốn
tiếng đồng hồ, ta chỉ cần dành một giờ cho sự thực tập đời sống không vội vã.
Nghĩa là ta thực tập đi không vội vã, ngồi không vội vã, đứng không vội vã, nằm
không vội vã, ăn uống không vội vã, nói cười không vội vã, làm việc không vội
vã, lái xe không vội vã, ngắm trăng sao, nghe chim hót hay nhìn những bông hoa
nở với tâm hồn trầm tĩnh, không vội vã,… nghĩa là trong một ngày ta chỉ dành
một giờ thực tập tiếp xúc mọi sự hiện hữu trong ta và chung quanh ta với tâm
hồn tĩnh lặng, không vội vã.
Xã hội con người hiện nay, người
ta làm bất cứ cái gì cũng vội vã. Vội vã là một hình thức khác của hấp hối.
Sống hấp hối, thì sự sống chẳng còn có gì thú vị nữa cả. Văn minh khoa học là
để giúp đỡ cho con người sống không vội vã, không bận rộn với đời sống vật
chất, nhưng do lòng tham của con người, nên họ đã biến mình trở thành đời sống
hấp hối và trở thành những dụng cụ hấp hối của khoa học vật chất và phản bội
những gì tốt đẹp mà họ đang có và phản bội những gì văn minh mà khoa học đang
hiến tặng cho họ.
Thọ mạng của ta ngắn hay dài, an
hay bất an, chúng hoàn toàn tùy thuộc vào tâm tĩnh lặng sâu hay cạn của ta. Tâm
ta tĩnh lặng sâu, những hạt giống vội vã trong tâm ta không có điều kiện để
hoạt khởi, khiến những mạch máu trong thân thể ta lưu thông tự nhiên, tim ta
không bị những áp lực của lòng tham hay tâm sân hận, để phải co bóp vội vã, ấy
là một trong những điều kiện giúp ta có một thân thể thanh thoát, nhẹ nhàng, ít
bệnh hoạn và thọ mạng lâu dài.
Trong khi một xã hội con người
đang hấp hối, không có được một giây phút nào cho tâm hồn tĩnh lặng, cho những
hoạt động không vội vã, thì núi vẫn xanh, suối vẫn chảy reo mỗi ngày, không
gian vẫn thênh thang và mây trời vẫn thong thả bay giữa không gian thênh thang
ấy, muôn vật đang sống và làm việc với chính nó một cách trọn vẹn chẳng có gì
vội vã cả và chỉ có con người sống với lòng tham nên vội vã mà thôi! Nhưng,
thực ra khi một người biết sống hết lòng, thì ngay trong đời sống của con
người, chẳng có cái cái gì để cho ta vội vã cả.