Mâu thuẫn “truyền thống và hiện
đại” phát sinh, một khi tính chính thống đưa đến bảo thủ. Ngược lại nếu hiện
đại không đưa ra được một nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa hiện tiền,
nếu hiện đại làm nghèo nội dung nhân bản của con người, hiện đại sẽ bị đào thải
và loại bỏ ra ngoài tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương
lai.
Bạn hãy nói cho tôi nghe về
“truyền thống và hiện đại” khi đứng ở một ngã tư nào đó ở TP. Hồ Chí Minh hay
Hà Nội, Nha Trang hay Huế hoặc Ðà Nẵng, trước một cảnh tượng muôn màu hỗn loạn:
một dòng thác người vô tận, - rất trẻ, ít thấy bộ dạng già nua - tiếng xe ầm ĩ
khuấy động màng nhĩ không ngớt. Đường phố đông nghịt xe, khí thải mù mịt, hầu
hết những người đi đường bịt mặt. Áo quần họ đang mặc, nhất là các phụ nữ, theo
mốt Âu châu, váy đầm dài, ngắn, quần jean bó sát, áo thun hở rốn hở lưng, tóc
quăn hay thả, có đầu nhuộm tóc vàng, găng tay đeo tận nách, đội mũ vải…
Thỉnh thoảng vụt qua một vài dáng
áo dài, hay áo vàng của một vị khất sĩ, hay áo nâu dài của các vị sư… hầu như
là của hiếm dành cho một đám cưới hay một đám ma nào… Kiến trúc nhà cửa đủ loại
từ phong cách thuộc địa, trung cổ cho đến túp lều tranh. Và ở trên một con
đường đất xa xôi nào đó o bán bún với đòn gánh kẽo kịt trên vai…
Bạn hãy cho một câu nhận xét thật
ngắn gọn về “truyền thống và hiện đại”, khi vừa qua, trong một buổi thảo luận
tại Viện Goethe Hà Nội về bản sắc văn hóa (cultural identity), một nữ trí thức
trẻ tuổi Việt Nam chỉ vào bộ áo quần jean đang mặc và phát biểu một cách đầy tự
tin: “Mặc dù tôi mặc quần jean, tôi vẫn không cảm thấy mình mất bản sắc văn hoá
Việt Nam, tôi vẫn uống, vẫn ăn và vẫn thở Việt Nam!”
Bạn nghĩ gì về “truyền thống và
hiện đại” khi biết, đâu đó giữa cảnh đường phố đầy quán nhậu, quán cà phê ầm ĩ
nhạc disco, có một gánh hát chèo, hát xẩm, hát ả đào, hát quan họ đang trống
đánh kèn thổi cố gắng nhắc nhở có một nền âm nhạc cổ truyền Việt Nam đang thoi
thóp? Ðồng thời ở một góc phố khác cảnh một cô dâu vóc dáng nhỏ bé trong chiếc
áo cưới kiểu Âu Mỹ trắng tinh quét bê bết lề đường lởm chởm, đứng cười rất tươi
bên cạnh chàng rể với bộ com-lê láng cón giữa bụi bặm, nhà cửa nham nhở, đường
phố đang được trốc lên xây lại… Và trong một cuộc tiếp tân sang trọng, trong
một sảnh đường tối tân hiện đại, máy lạnh và sâm banh, những người đại diện
trịnh trọng trong bộ áo dài khăn đóng vải the xanh, như một cuộc khêu gợi hồn
dân tộc?
Bài viết không nhằm đưa ra một
phán đoán giá trị khi ghi nhận những cảnh này. Chỉ ghi nhận hiện tượng ấy như
Umberto Eco đã ghi nhận khung hình văn hóa thường nhật của người Mỹ trong một
công viên giải trí Mỹ, mà ông cho là điển hình dưới điều kiện của văn minh hậu
hiện đại (postmoderne): Trong công viên này người đến thăm sẽ gặp Mozart
(1756-1791) và Caruso (1873-1921) ngồi chung một bàn và Hemingway (1899-1961)
đang đứng nhìn qua vai hai người kia, trong lúc Shakespeare (1564-1616) vừa
uống trà vừa trò chuyện với Beethoven (1770-1827)…
Những nhân vật của các thời đại
khác biệt tan hoà vào nhau trong một giàn cảnh sắp xếp không gian hiện tại. Eco
đưa ra một biểu tượng hòa nhập vào nhau giữa thực tại và giả mạo, trong đó dữ
kiện không đồng thời xen lẫn với dữ kiện đồng thời một cách chặt chẽ. Nó là
thành quả mà hiện nay kỹ thuật truyền thông đang tập trung nhắm đến: Tất cả đều
gần lại và tất cả đều xảy ra trong một không gian phẳng, cái đã qua và cái chưa
đến thu gọn trong cái bây giờ; quá khứ và tương lai đều thấy được trong khoảnh
khắc hiện tại.
Chính nghệ thuật giữ được ngọn
lửa truyền thống văn hóa đem đến ý nghĩa sinh động cho khái niệm truyền thống
như Thomas Morus (tác giả cuốn Utopia, 1478-1535) nhận chân:
“Truyền thống không có nghĩa gìn
giữ đống tro, mà là chuyển tiếp ngọn lửa”.
Giữ “lửa” và tiếp “lửa” là thổi
sinh khí truyền thống văn hóa vào hiện đại, mang sức ấm mùa xuân vào ngày hôm
nay, mang nhiên liệu thức ăn bồi bổ cho sức trẻ, đó là công việc đồng thời của
cha mẹ trong gia đình, của bạn bè trong xã hội, của thầy trò trong trường học,
của đạo sư và môn đồ, và không phải là kẻ cuối cùng, của nhà văn hóa và của cả
một thế hệ thức tỉnh và sáng tạo. Chất lửa ấy chính là ý thức tổng hợp linh
động có thể hội nhập mâu thuẫn giữa truyền thống và hiện đại, thâu gồm cái đồng
dạng và cái dị biệt, kết nạp cái cũ và cái mới, để có thể thật là “hiện đại” đầy
sáng tạo cho tương lai.
Tuy nhiên tính không đồng thời
giữa các nhân vật nói trên vẫn dựa vào một sự đồng nhất văn hóa: Truyền thống
văn học văn nghệ Âu Mỹ, từ đó truyền thống và hiện đại vẫn nằm trên tuyến chỉ
đỏ của nhất thể văn minh Âu châu, hậu hiện đại vẫn còn nằm trong truyền thống
hiện đại Âu Mỹ. Và dù mang tính bứt phá lịch sử chính thống nhưng hậu hiện đại
vẫn mọc rễ ngay trong truyền thống của hiện đại.
Trong trường hợp Việt Nam, hiện
trạng sao chép không chọn lọc văn hóa Tây phương cũng như thái độ từ chối văn
hóa bản địa thật đậm nét, đến nỗi từ hiện trạng này có thể suy ra sự gián đoạn
hay phá vỡ lịch sử truyền thống văn hóa trong tiến trình phát triển bản sắc dân
tộc trong quá khứ. Việt Nam trong thế kỷ 20 và 21 là sân cỏ của hai yếu tố văn
hóa Ðông - Tây trong một tương quan ảnh hưởng phức hợp. Nhưng hiển nhiên, trong
tiến trình phát triển này, một trong hai đi sớm hơn, nhanh hơn, mạnh hơn, lắm
khi đột kích ào ạt hơn, đưa đến một sự mất quân bình văn hóa hay khập khiễng
văn hóa. Hiện tượng mà W. F. Ogburn gọi
là “cultural lag”, khập khiễng văn hóa, đến từ sự thu nhận vô tình, vô thức
không chọn lựa, yếu tố văn hóa “khác, lạ”, dẫn đến nguy cơ đồng hóa văn hóa nếu
trong tương quan hỗ tương giữa hai nền văn hóa không có những tiêu chuẩn thích
nghi hay hội nhập phù hợp hầu tạo nên một hòa điệu có ý nghĩa cho con người
trong môi trường sống.
Trong tiến trình hoàn cầu hóa với
mức độ thần tốc của truyền thông điện tử, sự tỉnh thức trước nguy cơ đồng hóa
văn hóa trở nên thời sự hơn bao giờ. Phản ứng nhấn mạnh ý thức văn hóa bản địa
là một trả lời nghịch lý nhưng thực tế đối với tiến trình toàn cầu hóa, không
chỉ riêng Việt Nam .
Nhưng đặc biệt Việt Nam ,
trong tiến trình hội nhập thế giới, vấn đề “truyền thống và hiện đại” đang đánh
động sự chú ý với những sáng kiến kêu gọi trở về nguồn, ý thức bản sắc dân tộc,
bảo tồn di sản văn hóa v.v.
Xét cho cùng, những chủ trương
kêu gọi trở về nguồn không mới lạ, mà đã trở nên một nét “truyền thống” Việt Nam ,
một phản ứng tất nhiên đến từ bên trong xã hội, mỗi khi nguy cơ bị đồng hóa văn
hóa bộc phát tối đa. Lịch sử truyền thống văn hóa Việt Nam là lịch sử của sự tả xung hữu đột Ðông-Tây , Nam -Bắc
để nhận diện và khẳng định bản lai văn hóa của dân tộc. Song song với việc
tranh đấu giành độc lập ở các thời điểm lịch sử nhất định, trận chiến “tự chủ”
văn hóa xảy ra từng giờ từng phút trên từng tấc đất, trên từng đôi mắt, trên
từng mái tóc, bàn tay, trong từng sát-na ý tưởng của dân trong một nước khi va
chạm với yếu tố ngoại lai, với cái lạ, cái khác. Khẳng định tự chủ văn hóa dân
tộc là điều tiên quyết mà Nguyễn Trãi đã nêu ra trong “Bình Ngô đại cáo”:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo,
Như nước Ðại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Nước non bờ cõi đã chia,
Phong tục Bắc Nam
cũng khác...”
“Yên dân”, hòa bình và hòa điệu
nhịp sống là mục đích tối hậu của nhân nghĩa, của chức năng văn hóa. “Yên dân”
trước hết nằm trong bổn phận bảo vệ và tiếp tục xây dựng nền “văn hiến lâu
đời”. Yếu tính của khái niệm truyền thống, nếu hiểu truyền thống là tổng thể
những yếu tố văn hóa, trừ yếu tố bản năng của con người, bao gồm tất cả những
lối hành động, cư xử, xác tín, tư duy của một dân tộc được tự nguyện chấp nhận,
thực hành và truyền tụng từ đời này sang đời khác. Lý Thường Kiệt cũng như
Nguyễn Trãi nhấn mạnh tính liên tục “dài lâu” và tính nhất thể trong ý niệm
truyền thống văn hóa bằng cách vạch rõ ranh giới địa dư (“Nam quốc sơn hà nam
đế cư”) và tính đặc thù văn hóa Việt Nam (“Phong tục Bắc - Nam cũng khác”) đối
với phương Bắc. Yếu tố liên tục và yếu tố nhất thể, đồng thuận là đặc tính cấu
trúc của khái niệm truyền thống trong tương quan với những gì khác, lạ, ngoại
nhập và chưa đến, thuộc tương lai. Chúng là cơ sở lập luận cho tính chính thống
của bản sắc dân tộc, là hậu cần ổn định đất nước sau cuộc “quân điếu phạt trước
lo trừ bạo”.
Nhưng cũng từ đó, mâu thuẫn
“truyền thống và hiện đại” phát sinh, một khi tính chính thống đưa đến bảo thủ,
trở thành hàng rào bế quan tỏa cảng, trở thành hủ hóa. Từ “lý trí” (Vernunft)
xác đáng, nó có thể trở thành “vô nghĩa” (Unsinn), từ hành động gây an lạc nó
trở thành gây phiền não và truyền thống với tất cả luật lệ và quyền lợi truyền
thừa có thể đối với thế hệ đi sau chỉ là một căn bệnh vĩnh viễn (ewige
Krankheit) như Goethe (1749-832, Faust 1) đã nhận xét. Ngược lại nếu hiện đại
không đưa ra được một nội dung có ý nghĩa cho cuộc sống văn hóa hiện tiền, nếu
hiện đại làm nghèo nội dung nhân bản của con người, hiện đại sẽ bị đào thải và
loại bỏ ra ngoài tính liên tục, không thể trở nên “truyền thống” cho tương lai.
Nhìn từ khía cạnh tính liên tục
và tính nhất thể, mâu thuẫn “truyền thống và hiện đại” trước hết là mâu thuẫn
giữa hai hay nhiều thế hệ. Làm thế nào để thế hệ đi sau chấp nhận và kế tục
truyền thống văn hóa của người đi trước, để truyền thống ấy có một ý nghĩa hiện
đại và đóng góp vào sự “yên dân”? Mỗi chặng đường, mỗi thế hệ trong hiện tại sẽ
trở thành quá khứ cho tương lai, văn hóa sống động hôm nay sẽ trở thành hôm qua
của ngày mai. “Truyền thống” do đó bao gồm phương thức thực hiện cho được sự
chuyển tiếp sức sống hiện đại cho thế hệ hiện tại và tương lai. Ðó là ý nghĩa
sinh động của truyền thống, chống lại mọi khuynh hướng rập khuôn, sao chép sáo
rỗng cũng như khuynh hướng bắt chước, lặp lại, tùy tiện sử dụng nhầm lẫn loại
hàng phế thải “second hand” thay thế sản phẩm văn hóa đầu tay.
Ðó là tâm thức mà Trần Nhân Tông
ở thế kỷ 13 đã mài giũa trong công cuộc giáo hóa, huấn luyện tu tâm. Tính linh
hoạt của phương pháp này còn đẩy xa hơn ngọn lửa của Morus cũng như vượt lên
tính nhất thể tương đối của Nguyễn Trãi:
“Dùng công án cũ để làm gì?”:
“Mỗi lần nêu ra một lần mới!”
Không phải từ chối truyền thống
mà sử dụng truyền thống, nhưng không lặp lại nó như ủ đống tro tàn, như mang
thứ áo hình nộm rỗng tuếch, mà phải hiện đại hóa, phải đưa lửa, đưa sinh khí,
phải làm mới như không bao giờ đã cũ! Muốn thế, Trần Nhân Tông nhấn mạnh: cần
rốt ráo đến tận cùng cả cũ lẫn mới, thấu triệt kinh sách, thấu triệt văn hóa
truyền thống, rồi mở toang cánh cửa nhất thể biện biệt, thong dong hội nhập cái
mới với một thực chất sinh động chưa từng có.
Khả thể hội nhập cái mới có lẽ
nằm trong chìa khóa: “phải thật là cũ” với một tâm thức tự do, mở toang tất cả
lâu đài văn hóa nghìn xưa, khơi lửa trong đống tro, sẵn sàng bứt phá, sáng tạo
như chính cuộc sống hiện tại đang bừng dậy.
Trong truyền thống của tư duy
Thiền học và Phật học Việt Nam ,
có thể nói tâm thức Trần Nhân Tông hiện đại hơn cả hậu hiện đại trong viễn
tượng đem đến điều kiện khả thể về một phương pháp “chuyển lửa” văn hóa quá
khứ, đốt sáng tâm thức, sáng tạo cái mới cho thế hệ tương lai.