Biết đâu hạc nội, mây ngàn là đâu?
Nguyễn Du
Không biết từ lúc nào, mà
ngôi tịnh thất vô danh thấp thoáng dưới tàn cây huỳnh đàn rậm lá trên
đỉnh núi Ông cheo leo mây mù đong đưa bao phủ quanh năm, đã được dân quê
dưới chân núi ưu ái gọi là am Mây Ngàn thay thế cho cái tên “chòi đạo
Ân” mà họ hùa nhau ám chỉ túp lều lá của sư Từ Ân ngày trước. Thuở
mới đăng sơn cắm dùi khẩn đất làm chốn ẩn tu, sư lủi thủi một mình
chẳng có móng đệ tử lăng xăng đón đưa phục dịch, sư tự vác cuốc,
quẩy gánh... lặng lẽ lên tận đỉnh, khai phá được một khoảnh đất nhỏ
làm rẫy. Sư bắt đầu trồng các loại rau đậu, khoai, bắp, cà dưa... để
sớm gặt hái hoa lợi, mang xuống núi nhờ người dân phân phối tiêu thụ
để đổi gạo và vài vật dụng linh tinh cần thiết.
Sau đó sư mới phát triển thêm
vài loại cây ăn trái như mít, ổi và năm ba bụi chuối... những loại
mà bạn hàng thường đến tận nơi mua mão, sư đỡ nhọc công liên tục
gồng gánh xuống núi. Sư lao động cần mẫn, chơn chất giao tiếp, cung
kính đối xử với mọi người, chẳng ra vẻ dạy đời dạy đạo ai, thành
thử dân xóm dưới núi chẳng mấy ai tin tưởng sư là bậc tu hành chân
chính, nên nếu họ gọi sư là “ông đạo” hay “đạo Ân” kể ra là quá
trọng vọng rồi. Một hôm sau chuyến đi tham dự giỗ tổ hàng năm tại
quận Tánh Linh trở về, sư Từ Ân bỗng nghe tin bà Hai, một cụ bà
nghèo khó xóm dưới chân núi lâm trọng bệnh đang ở trong tình trạng hiểm nghèo, sư vội ghé thăm. Hoàn cảnh
sống của cụ vốn đã bi đát, con cái lập nghiệp phương xa, bỏ lại đứa
cháu trai bé bỏng – thằng cu Tý - cho bà chăn giữ, nay thằng bé đã
lên tám tuổi mà người cha vẫn biệt tin, hai bà cháu đành bươn chải
lội vào rừng mót củi đem về bán đề kiếm sống đắp đổi qua ngày. Nay
nếu bà có mệnh hệ nào thì số phận thằng bé càng thêm mờ mịt.
Sư đến nơi vừa đúng lúc: bà
cụ đang cơn hấp hối mê man, thở khò khè đứt khoảng... mà mắt lại
trợn trừng, như vẫn tiếc nuối gắng kềm giữ chút hơi tàn... Ôm cứng
thân bà là đứa cháu nội đang kêu khóc thảm thiết khiến bà con cô bác
đang tề tựu ai cũng mủi lòng. Thế nhưng, tuy mọi người đều ra vẻ
khẩn trương góp ý, mà chẳng ý nào được đa số tán đồng, thành ra
tranh luận lăng nhăng mãi, vẫn chẳng có giải pháp cụ thể nào được
đề ra cả. Sư vội vã mở tay nải lấy y vàng khoát vào, khẽ tiếng
khánh cho mọi người chú ý, rồi cất tiếng:
- Thưa bà con cô bác! Tình
trạng bà Hai đã nguy kịch lắm rồi, bây giờ dẫu chúng ta bàn tán ồn
ào cách nào cũng không cứu vãn nổi mạng sống bà, mà có lẽ chỉ
làm cho bà thêm bối rối khổ sở mà thôi, do đó, tôi đề nghị bà con
giữ yên lặng để cùng tôi Niệm Phật nguyện cầu hương linh bà sớm ra đi
nhẹ nhàng an lạc...
Vuốt ve vỗ về thằng bé, sư
ôn tồn hỏi:
- Cháu thương nội lắm phải
không?
- Híc... híc...! Thương lắm
lắm!..
- Thương thì cháu phải bình
tĩnh, đừng kêu khóc, thì thầy Niệm Phật nguyện cầu cho nội cháu mới
có kết quả!
- Dạ!
Sư khẽ tiếng khánh rồi hướng
về con bệnh ngọt ngào lên tiếng:
-Dì Hai! Tôi nghĩ rằng dì Hai
đang bối rối vô cùng không nỡ ra đi chỉ vì quá lo lắng cho số phận
của thằng cháu phải không? Nếu đúng như vậy, thì tôi xin hứa với dì
là sẽ thay thế dì lo lắng cho nó, tôi nguyện nuôi nấng dạy dỗ nó nên
người. Xin dì hãy yên tâm!
Mắt bà Hai đã đứng tròng,
vậy mà bỗng nhiên chớp chớp, một giọt nước mắt thương cảm mơ hồ ứa
ra. Sư vội tiếp lời:
- Thời giờ còn lại rất quý,
vì vậy dì nên hết lòng tu tập. Khởi đầu tu tập là lễ quy y nghĩa
là xin nương tựa vào Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Thầy đặt cho dì pháp
danh là Diệu Duyên, với ý nghĩa là dì có phước duyên kỳ diệu trong
giờ phút cuối của cuộc đời, được quy y Tam Bảo. Diệu Duyên hãy phát
nguyện trong tâm: Con nguyện quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Diệu
Duyên đã quy y Tam Bảo thì không còn phải đọa vào ba đường ác địa
ngục, ngạ quỷ, súc sanh nữa, tuy biết vậy, nhưng Diệu Duyên phải tận
lực tu tập thêm giây phút nào tốt giây phút nấy. Phương pháp giản dị
nhất mà chư Phật đồng giảng dạy là
“khi lâm chung nếu ai một lòng chân thành niệm danh hiệu Đức
Phật A Di Đà mười niệm, thì sẽ được Đức Phật gia bị vãng sanh về cõi
Cực Lạc. Thầy sẽ niệm Phật hướng dẫn cho dì Diệu Duyên niệm theo,
dì nhớ một lòng một dạ niệm, đừng nghĩ chuyện gì khác, không lo
lắng, buồn bực hay sợ hãi gì hết nhé!
Hướng về bà con lối xóm, sư
lên tiếng hướng dẫn:
- Cận tử nghiệp đóng vai trò
quyết định cho cõi tái sanh nên rất là quan trọng, vì vậy thầy xin cô
bác nên hết sức ủng hộ cho dì Hai tu tập trong giờ phút nầy. Xin cô
bác hết lòng cùng với thầy Niệm Phật hỗ trợ cho dì, hầu giúp dì
tăng thêm công đức vãng sanh về cõi Phật.
Sư khẽ tiếng khánh, rồi lên
tiếng:
- Xin tất cả cùng Niệm Phật
theo tôi: “Nam
mô A Di Đà Phật... Nam
mô...”
Điều lạ lùng là bệnh nhân
trong cơn hấp hối tay chân co giật quờ quạng, lăn lộn trăn trở và hơi
thở thì nặng nề đứt khoảng... vậy mà bỗng chịu nằm yên lại, sắc
diện thư giản lần, bớt nét khủng khiếp, rồi hơi thở cũng từ từ dịu
nhẹ, thoang thoảng mong manh rồi ngưng hẳn. Dù vậy, sư cũng tiếp tục
chủ trì Niệm Phật thêm tám giờ mới tạm ngưng. Sư chi tiền nhờ người
mua một áo quan rẻ tiền, tụng kinh siêu độ, cùng hoàn tất mọi lễ
nghi cần thiết cho đến khi an táng xong mới dẫn cu Tý lên núi nuôi dưỡng...
Tý hội nhập an vui với nếp
sống mới, và tiến bộ khá nhanh, có lẽ nhờ được thầy thương yêu chăm
sóc chu đáo từ vật chất đến tinh thần: thầy dạy Tý tập đọc, tập
viết, tập toán pháp và rèn luyện từng oai nghi. Tý cũng sáng dạ nên
chỉ thời gian ngắn đã có thể thuộc làu làu vài thi ca thiền và kinh
sám ngắn, chuông mõ cũng khá nhuần nhuyễn nên được thầy cho thọ giới
sa di với pháp danh là Minh Mẫn. Tuy chỉ có hai thầy trò, nhưng sư Từ
Ân vẫn nghiêm túc giữ hai thời khóa công phu khuya và tối. Thời tọa
thiền chú được miễn, dù vậy chú vẫn tự động thực tập, nhưng thường
thường chú chỉ cố gắng chừng mười lăm phút thì chân tay đã rọ rạy,
chú rón rén phóng khỏi thất ngao du sơn thủy.
Ngoài lúc phải chăm sóc rẫy
bái, sư dành khá nhiều thời giờ giảng dạy cho đệ tử kiến thức căn
bản nương theo chương trình bậc tiểu học, đồng thời cũng tùy nghi gieo
hạt giống đạo pháp qua các hiện tượng thực tiển ngay trong nếp sống
hàng ngày: một con chim thoi thóp, một áng mây tan... đều có thể gợi
ý cho bài học vô thường vô ngã; bầy ong hút mật, đàn kiến tha mồi...
cũng dựng thành đề tài tinh tấn dõng mãnh tu tập. Chú sa di theo hầu
sư phụ gần sáu năm, thằng bé con ngờ nghệch năm xưa đã vào lứa tuổi
mười bốn, chú thích quan sát tìm hiểu cội nguồn sự vật, nên luôn
luôn có những nghi vấn lẩn quẩn trong đầu. Vừa gánh nước tưới luống
khoai, vừa nghêu ngao ngâm nga: “Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Cảnh phù
du trông thấy bỗng nực cười!..(1)”, chú bỗng ngưng lại hỏi sư phụ:
- Thưa thầy! Cảnh phù du ý
nghĩa như thế nào con không hiểu, thầy ạ!
- Phù du chỉ chung cho loại
côn trùng nhỏ kiếp sống ngắn ngủi một vài ngày tợ như con thiêu thân,
vì vậy, cụm từ “cảnh phù du” ngụ ý cho cái cảnh lợi danh, vinh
nhục... ngắn ngủi chóng tàn mà con người bon chen chạy theo như con thiêu
thân lao vào ánh lửa. À! Mà con có hiểu “ba vạn sáu ngàn ngày” mang
ý nghĩa gì không con?
- Thưa thầy! Ba vạn sáu ngàn
ngày là một trăm năm, tượng trưng cho một kiếp người!
- Giỏi lắm! Vậy con tính thử
xem con phù du phải trải qua bao nhiêu kiếp mới bằng một kiếp người,
vậy con?
- Nếu đời sống của chúng
kéo dài ở mức trung bình chừng hai ngày, thì tính ra chúng phải
trải qua đến 180 ngàn kiếp lận! Ối chà! Vậy thì đời người kể ra
cũng dài nhằng phải không thầy?
- Ừa! Quả thật quá dài so
với côn trùng, nhưng nếu đem so với các cõi Thiên hay cõi Cực Lạc thì
trăm năm cõi người ngắn ngủi như một ngày, một khắc hay một giây phút
mà thôi!
Thấy đệ tử tròn xoe mắt,
ngạc nhiên đến ngẩn người, sư mỉm cười tiếp lời:
- Để con có thể hình dung
được tính tương đối của kiếp sống dài ngắn, thầy kể con nghe sự
tích về người tôn vinh chồng(2) tức nàng Patipùjikà như sau:
“Vào một buổi sáng, vị Thiên
tử tên là Màlabhàrì(3) - người mang vòng hoa – là một trong những Thiên tử
trên cõi trời thứ ba mươi ba(4), cùng một ngàn cô vợ tức Thiên nữ như
thường lệ viếng vườn thượng uyển. Các thiên nữ thi nhau, kẻ hái hoa,
người kết tràng hoa tô điểm Thiên
Tử. Có một thiên nữ tên Patipùjikà đang hái hoa thì mạng số bỗng chấm
dứt. Vì chúng sinh cõi nầy thuộc loại hóa sanh, nên khi lìa đời thì tức
thời thân biến mất như một ánh đèn chợt tắt, nên bao người hiện diện tại
đó chẳng ai hay biết.
“Cô tái sanh vào một gia đình
có địa vị tại thành Xá-vệ vào thời Đức Phật tại thế, và do phước duyên
hy hữu, cô nhớ rõ được tiền kiếp, nên sống trong nhung lụa mà cô hằng
tha thiết mong rời bỏ chốn nầy để tái sanh về cõi Trời chung sống
với người chồng cũ, tức thiên tử Màlabhàrì mà cô yêu thương. Nhằm thỏa
mãn nguyện ước nầy, cô tinh tấn tu thập thiện và đặc biệt là hạnh
bố thí và hạnh lễ kính cúng dường Tam Bảo, bền bĩ suốt mùa an cư
nầy đến mùa an cư khác. Năm mười sáu tuổi cô được gả chồng giàu sang
và lần lượt hạ sanh được bốn người con, nhưng dù đời sống thế gian
có tốt đẹp như thế nào, cô “tiên mắc đọa” nầy vẫn một lòng một dạ
hăng say tu tập với nguyện vọng duy nhất là sớm tái sanh về cõi Trời
hội ngộ với người chồng thiên tử.
“Một hôm, sau khi cúng dường đảnh
lễ chư Tỳ-kheo, nghe pháp và thọ trì giới xong, đến chiều tối vừa về nhà
thì cô thình lình mắc bệnh qua đời và liền tái sanh về với chồng trước. Suốt
thời gian đó các thiên nữ vẫn còn đang nhặt hoa trang điểm cho vua trời
Màlabhàrì. Vừa thấy mặt nàng, thiên tử liền vặn hỏi:
“- Nảy giờ nàng đi đâu mà
vắng mặt?
“- Thưa thiếp vừa từ trần
chốn nầy, liền đọa sanh làm người tại thành Xá Vệ, nước Thiên Trúc.
Thiếp vào thai mười tháng, sanh ra lớn lên, và lập gia đình hạ sanh
bốn con... sống mấy mươi năm tại cõi Thế, nhờ hết lòng tu tập hồi
hướng sanh trở lại cõi Thiên, nên vừa chết thiếp liền hóa sanh về đây
diện kiến long nhan, mà buổi hái hoa trang điểm vẫn chưa tàn.(5)
“- Đời sống loài người quả
ngắn ngủi đến mức đó sao?
“- Dạ! Ngắn ngủi nên con
người phải tất bật làm lụng nhọc nhằn cả đời để mưu sinh, đã vậy
còn gánh chịu bao nỗi khổ hành hạ: nào là khổ sanh già bệnh chết,
khổ cầu chẳng được, khổ chia lìa người thương, khổ chung đụng người ghét,
lại còn bị thiên tai khủng khiếp dọa nạt, chiến tranh xâu xé, nạn
cướp giật, lường lọc giả trá rình rập... khiến con người phải chịu
khổ sở triền miên từ khi chào đời cho đến khi mạng vong.
“Thiên tử chép miệng than:
“- Tội nghiệp họ quá há!
“Thế nhưng, ngàn thiên nữ bao
quanh đang tranh nhau õng ẹo phục vụ Thiên tử, người quá bận rộn
hưởng lạc thú thần tiên nên đâu có “hưỡn” suy nghĩ chuyện tào lao ở
cõi trần làm gì nữa. Vì vậy, nếp sống trên tầng trời thứ ba mươi ba
đó vẫn tiếp tục như cũ chẳng có gì thay đổi.
“Trong khi đó, tại trần thế
có những vị Tỳ Kheo khi nghe tin vị thí chủ thuần thành chỉ có một
ước nguyện đơn giản “sống với chồng” mà lại bị chết yểu bỏ lại
chồng con, bèn chạnh lòng thương xót tham kiến Đức Phật tìm hiểu
nguồn cơn. Đức Phật dạy: “Nầy các Tỳ Kheo! Nàng Patipùjikà không hề
mong cầu sống với người chồng ở đời nầy, mà thật tâm chỉ nguyện được
sống với người chồng Thiên Tử ở cõi trời thứ ba mươi ba và nay nàng
đã thỏa nguyện rồi!”
Sư yên lặng trong giây phút cho
đệ tử nghiền ngẫm, rồi từ hòa khuyên nhủ:
- Qua câu chuyện nầy ta có
thể nhận thấy rằng trong sáu nẻo luân hồi: cõi Thiên, cõi A Tu La thọ
mạng dài lâu, vui chơi sung sướng thỏa thích... nhưng nhàn nhã quá nên
chẳng ai quan tâm đến việc tu hành, mãi đến khi hết phước bị đọa lạc
mới ăn năn thì đã muộn màng rồi; cõi súc sanh ngu mê ám chướng, cõi
ngạ quỷ địa ngục đói khổ bức bách cùng cực...đều không có điều
kiện tu tập; chỉ riêng có cõi người, mạng sống vừa phải, có thời
giờ phát triển sự hiểu biết, mới có thể nhận chân được lý vô
thường trên cuộc đời, lại được cái khổ sanh, già, bệnh, chết thúc
bách nhắc nhở, nên mới có thể phát tâm dõng mãnh tu đạo giải
thoát... tóm lại ta có thể xác quyết rằng cõi người hội đủ điều
kiện tu tập thù thắng hơn bất cứ nẻo nào khác. Minh Mẫn ạ! Được
làm người, được học hỏi Phật pháp là phước duyên lớn đó! Con nên
luôn luôn tạc dạ điều nầy để đêm ngày thúc liễm thân tâm tu tập con
nhé!
- Xin thầy yên tâm! Con luôn
tận lực tu tập để có thể hồi hướng công đức cho nội con, thầy ạ!
- Con giữ được lòng hiếu
kính trung hậu như vậy khiến thầy rất hài lòng!
Sư thong thả chuẩn bị trở
vào tịnh thất tọa thiền, chợt cảm thấy núi rừng như đang hân hoan
bừng dậy, quang đãng ấm áp vô cùng, cỏ cây mơn mởn xanh tươi, chim chóc ca hót vang lừng,... thiên nhiên tỏa ra sức quyến rủ lạ lùng
khiến sư không cưởng nổi, sư bỗng nảy ý ghé lại tảng đá bằng phẳng
cạnh dàn bí tọa thiền. Bông bí vàng tươi rực rỡ, ong bướm lăng xăng
vần vũ hút nhụy hoa, hoạt cảnh náo nhiệt dễ thương nầy cứ thế mà đeo đẳng sư mãi,
khó mà dừng lại. Sư nghĩ đến giải pháp đối trị bằng cách trực
diện ngay với cái loạn động, vì vậy sư liền xử dụng “đời bướm vô
thường” làm đề tài thiền quán...
Khởi đầu... Từ giấc ngủ miên
man con nhộng trở mình thức giấc, rụt rè xòe đôi cánh mong manh học
đòi làm bướm. Bướm đón chút nắng ấm cho tăng thêm sức lực, động đậy
đôi cánh, rồi rướn người tới trước, cố sức đập cánh liên tục nghiêng
ngả bay, rồi từ từ lấy được thăng bằng vút mình lên cao. Con bướm
vàng tung tăng đảo một vòng quanh dàn bí, dun rủi dọc theo luống cà,
luống dưa, rồi tiếp tục lướt nhanh về hướng Đông. Bướm len lỏi theo
vách đá dựng đứng không dấu chân người, rồi đậu lại trên chùm bông
bằng lăng hồng tím chót vót trên đỉnh, ngạo nghễ ngắm ngàn mây chất
chồng cuồn cuộn xua đuổi nhau về chốn mịt mù xa tít. Bấy giờ, dường
như sư không phân biệt nhớ nghĩ gì
đến chủ thể và đối tượng để tài thiền quán nữa. Sư nhập nhằng làm
bướm hay bướm biến hóa ra sư cũng đều chẳng có gì là quan trọng,
hiện hữu mầu nhiệm hiển bày thì bướm cứ vui sống đời bướm vậy
thôi...
Bướm vàng mỉm cười tiếp tục
phất phới hướng về mõm đá phương Bắc, săm soi từng cụm mai rừng trụi
lá rải rác đây đó và khám phá được một cành vừa ý, đơm đầy bông
búp dự trù sẽ nở đúng dịp Xuân về. Bướm vàng nhởn nhơ hướng về
ngôi chùa Tổ Vĩnh Trường. Chùa vắng vẻ xác xơ quá! Lạ thật! Một cư
sĩ đang thang thuốc cho sư trụ trì. Theo lời than thở đối thoại thì sư
trụ trì lâm bệnh nặng, trong khi người đệ tử truyền thừa bỗng hoàn
tục bỏ đi mất biệt, nên đã cận Tết, mà chùa vẫn còn u tối ngổn
ngang... Cảnh tượng điêu tàn bỗng khiến cánh bướm thoáng lao đao vương
vấn...
Trên đường quày quả trở lại
núi Ông, bướm vàng lượn một vòng thăm thôn xóm dưới chân núi. Xóm
núi đông đúc và thịnh mậu hẳn ra. Có lẽ nhờ đường giao thông về
quận lỵ Tánh Linh thuận lợi nên rau quả đủ loại đều có mối tiêu
thụ, giá cả cũng khá cao, nhờ vậy nhà cửa người dân cũng trở nên
ngăn nắp khang trang hẳn ra. Nhà nào cũng sắm tủ thờ, bàn ghế đắt
giá, chưng bày kiểng bông rực rỡ chuẩn bị mừng Xuân mới. Bướm vàng
bay là đà đến xóm hạ, dừng lại chiêm ngưỡng hàng bông bụt(6) sum sê
bên bờ ao, rồi đáp nhẹ trên một đóa hoa. Đóa hoa màu hồng đẹp và dễ
thương ảnh hiện bồng bềnh trên mặt nước lăn tăn: bướm trong hoa, hoa
trên nước chập chờn. Bông bụt cũng sớm nở tối tàn, cũng mong manh như
phận phù du, phận bướm. Bướm vàng bỗng chạnh lòng liên tưởng đến
bài thơ “Hoa mộc cận”(7) của thi hào Nguyễn Trãi ngày xưa, bèn cất
tiếng ngâm nga:
Ánh nước hoa in một đóa hồng
Vẩn nhơ chẳng bén, bụt là lòng
Chiều mai nở, chiều hôm rụng
Sự lạ cho hay tuyệt sắc không.
Cảm thấy lòng thanh thản nhẹ
nhàng, bướm vàng phơi phới bay về am Mây Ngàn, bướm lượn một vòng
quanh dàn bí, rồi từ từ đáp xuống... Vụt một cái, có làn gió cực
mạnh xô đẩy bướm vàng rơi sà xuống đập cánh vào tảng đá đau điếng.
Sư kêu nhỏ “ui da”, choàng
tỉnh... xả thiền, rồi xoa bóp nhẹ nhẹ cánh vai cho đỡ đau, sư chợt
liên tưởng đến trường hợp Ngài Nguyệt Quang Bồ Tát, rồi thầm tự
cười cợt mình: “Điệu nầy rủi mình gặp đệ tử mạnh tay phang cho
miếng ngói thì bẹp dí như chơi!”(8). Chú đệ tử ngoan đang cầm quạt
hầu thầy bỗng cất tiếng báo cáo:
- Thưa thầy! Con thấy thầy
đang tọa thiền mà ong bướm bay quanh tấp nập quá, sợ chúng phá rối
thầy nên đứng bên quạt đuổi chúng đi. Mới đây nè! có con bướm vàng
thật lớn bỗng bay sát bên thầy, lại còn “làm hỗn” toan đáp lên đỉnh
đầu thầy nữa, con vội quạt một cái mạnh đuổi nó đi, khiến nó té
xuống, chẳng biết sống chết thế nào? Con sợ tội quá thầy ạ! Ủa sao chẳng thấy nó đâu cả, chắc nó
còn sống và đã bay mất rồi, thầy ơi!
- Hà! hà! Chẳng có gì đáng
quan tâm con à! Nó chỉ là “vở tuồng ảo hóa” thì sao mà chết cho
được? Nầy con! Mai nầy mình sẽ về chùa tổ, con nhớ nhắc thầy cắt
cành mai cúng Phật nhé!... Úi chà!
Lạ quá! Sao vai thầy bỗng đau
nhức vậy kìa! Con lấy tí dầu xoa bóp cho thầy, con nhé!
Ghi chú:
1. Trích thơ “Uống rượu tiêu
sầu” của thi hào Cao bá Quát (1909-1855).
2. Truyện tích “Người Tôn Vinh
chồng” trích theo bản Việt dịch
của Thiền Viện Viên Chiếu (không rõ tên dịch giả), chuyển ngữ từ bản
tiếng Anh của Watson Burlingame. Bản tiếng Anh đã dựa vào nguyên tác
Pháp Cú Sớ Giải bằng tiếng Pàli, tương truyền là công trình của ngài
Buddhaghosa (Phật Âm), sống khoảng thế kỷ thứ V Tây lịch.
3. Màlabhàrì chỉ là một trong
rất nhiều Thiên tử bình thường trên cõi Trời thứ 33, không phải là
Vua Trời Đế Thích như có người lầm lẫn. Vị Thiên chủ tức Vua cõi
Trời 33 là Indra, Việt dịch là Đế Thích, là bậc có trí huệ lớn,
phước báu bao la và có đại thần thông chiến đấu chống A tu La, và
thường xuất hiện ở Thế gian cúng dường thỉnh pháp Đức Thế Tôn và
hộ trì Phật Pháp.
4. Tầng Trời thứ ba mươi ba
tức Tam thập tam thiên chỉ cho Đao Lợi thiên, cõi Trời do Vua Đế Thích
(Indra, Sakkla) cũng gọi là Kiều thi Ca (Kaucika) làm thiên chủ.
5. Một trăm năm cõi người bằng
một ngày đêm cõi trời Đao Lợi.
6. Bông bụt: Bông đỏ có tên
khoa học là Hibiscus rosa-sinensis, thuộc họ Cẩm quỳ (Malvaceae), tên chữ Hán
là mộc cận, miền Nam gọi là bông bụt, miền Bắc gọi là hoa dâm bụt
(nhưng theo nhiều nhà nghiên cứu thì đúng tên phải gọi là hoa dâu bụt,
vì loài hoa nầy truy ra còn có tên chữ Hán khác là Phật tang, dịch
nghĩa là dâu bụt, nên có thể do phát âm sai mà thành dâm bụt).
7. Hoa mộc cận: Thơ của thi
hào Nguyễn Trãi (1380 - 1442). Trong bài thơ nầy, câu thứ ba, vài nhà
nghiên cứu tự sửa lại là “sớm mai nở, chiều hôm rụng”, nhưng người
viết giữ theo nguyên bản chính xác là “chiều mai nở, chiều hôm rụng” vì
theo ngôn ngữ xưa thì chiều mai tức là sớm mai theo ngôn ngữ bây giờ.