Khi chúng ta suy niệm về Giáo
pháp - lời dạy của Đức Phật, chúng ta khéo đặt câu hỏi cá tính thực sự là cái
gì: Ý thức về một sự tách rời, sự riêng biệt của chính chúng ta, hay sự nhận
thức về bản thân mình như là một con người khác với những người còn lại.
Ngày nay con người đang bắt đầu
hiểu biết về bản chất của ý thức ngày càng nhiều hơn, mặc dù đó là một kinh
nghiệm mà chúng ta ai cũng có, nhưng có lẽ để hiểu được nó thì vẫn còn rất ít.
Các nhà khoa học nghiên cứu về ý
thức, cố gắng tìm một cơ sở vật chất cụ thể cho nó. Nó ở trong não phải không?
Nó là gì? ... Nhưng việc này cũng hoài công giống như cố gắng để tìm hiểu cái
ngã thực sự của chúng ta là gì. Càng cố tìm hiểu chúng ta thực sự là ai, chúng
ta dường như càng đi vòng quanh hoặc hệt như đuổi theo những cái bóng, chúng ta
không thể nắm điều gì được lâu, những gì chúng ta hiểu thoạt đến là biến mất.
Tuy nhiên, không phải là tự ngã –
chúng ta là ai hoặc chúng ta là gì – là vấn đề. Đúng hơn là chính cái ảo tưởng
quanh sự nhận thức về chúng ta là gì, việc tâm của chúng ta phải chịu sự nhào
nặn để phù hợp theo những chuẩn mực nào đó sau khi chúng ta được sinh ra – đó
mới là vấn đề. Khi chúng ta chào đời, đứa bé sơ sinh có ý thức nhưng nó không
có cảm giác nó đang là một con người, cá tính- đây là thứ thầm nhuần vào trong
chúng ta trong quá trình chúng ta lớn dần lên. Chúng ta tiếp nhận đủ loại quan
kiến và giả định truyền trao cho chúng ta qua cha mẹ, đồng nghiệp, và xã hội mà
chúng ta đang sống. Chúng ta đang được “cho ăn” bằng những thông tin, kiến thức
đại loại như chúng ta là gì và chúng ta nên như thế nào. Vì vậy, sức mạnh của
thiền tập là giúp chúng ta bắt đầu nhận ra bản chất thật sự của tâm khi nó,
chưa bị nhào nặn theo các chuẩn mực của sự nhận thức, nền văn hóa, tư tưởng
hoặc các ký ức.
Nếu chúng ta cố gắng để suy nghĩ
về thiền tập là như thế này hoặc như thế kia, có nghĩa là chúng ta đang tạo ra
một hình ảnh chúng ta đang cố gắng hành thiền, thay vì chỉ đơn giản tin vào kết
quả của sự chú tâm trong chánh niệm, buông bỏ mọi mong muốn tìm kiếm hoặc nắm
bắt điều gì. Khi nào chúng ta còn nghĩ về chính mình, chúng ta đang là một
người – một ai đó - nhưng khi chúng ta buông bỏ suy nghĩ, để tâm trí hoàn toàn
trống rỗng thì sẽ không còn có ý thức về một con người, tuy lúc đó ý thức, sự
nhạy cảm vẫn còn , nhưng chúng ta thấy mình không phải là một con người, không
còn là một người đàn ông hoặc một người đàn bà, chỉ có sự hay biết về những gì
đang xảy ra - cảm xúc như thế nào, tâm trạng ra sao, bầu không khí mà chúng ta
đang trải nghiệm ngay trong khoảnh khắc này. Chúng ta có thể gọi đây là hay
biết trực quan. Nó không bị lập trình và rập khuôn theo những suy nghĩ, ký ức
hay các hay biết bình thường của chúng ta [*].
Một trong những vấn đề lớn trong
thiền tập là chúng ta có thể quá coi trọng bản thân. Chúng ta có thể thấy mình
là những người mộ đạo được sinh ra để dành cho những việc quan trọng, chẳng hạn
như để nhận ra chân lý. Chúng ta cảm thấy mình quan trọng, chúng ta cho mình
không phải là những kẻ phù phiếm hoặc hạng người tầm thường, sống một cuộc đời
xoàng xĩnh, chỉ lo đi mua sắm ở các siêu thị và xem truyền hình.Tất nhiên, sự
nghiêm túc này cũng có lợi thế của nó, vì nó có thể khuyến khích chúng ta từ bỏ
các hoạt động ngu ngốc để làm những việc nghiêm túc hơn. Tuy vậy, nó có thể dẫn
đến sự kiêu ngạo và tự phụ: Cảm giác mình là một người giữ giới một cách nghiêm
ngặt, hay là một người có mục tiêu vị tha, hoặc là một người đặc biệt hiếm có
về một khía cạnh nào đó, đã xuất hiện trên hành tinh như một đấng Cứu thế ...
Chúng tôi đã gặp những người như vậy, thỉnh thoàng họ đến thăm chúng tôi tại
Amaravati, những nhân vật kỳ lạ này đến và tự tuyên bố mình chính là Đức Phật
Di Lặc!
Tự phụ, trạng thái kiêu ngạo này
của con người chúng ta là một vấn đề đã có từ thuở ông Adam và bà Eve, hoặc có
từ khi Lucifer (Ma vương) bị ném ra khỏi thiên đàng. Đó là một loại tự hào có
thể làm cho con người mất đi mọi triển vọng, vì vậy chúng ta cần phải thấy rõ
sự ngu xuẩn của sự tự ám ảnh này và nên coi nó (tự phụ) như là một trò hề.
Trong đời sống tu viện, chúng ta
có thể trở nên nghiêm túc hết mực trong việc giữ gìn giới đức trong sạch, tôn
trọng kỷ luật cũng như sự cống hiến của chúng ta và v.v... Đối với một con
người trần tục, dường như các nhà sư và các sư cô đang làm cho cuộc sống trở
nên khó khăn hoặc phức tạp cho chính họ hoặc cho những người khác một cách
không cần thiết. Nhưng xét về mặt tục lệ của tôn giáo, chẳng hạn như của truyền
thống Phật giáo Nguyên thủy, lấy trọng tâm là giới luật, thiền tập, sự trong
sạch của truyền thống, thì sự đánh giá ấy tuy thực nhưng không đúng, đúng nhưng
không thực.
Lần nọ, tôi đã đến gặp một vị
thầy, vị này nói rằng chúng ta không cần có kỷ luật hoặc Giới luật: "Tất
cả bạn phải làm là giữ chánh niệm. Chỉ Chánh Niệm thôi là đủ. " Vì vậy,
tôi quay về và kể lại cho Ajahn Chah, và ngài nói: "Thực nhưng không đúng,
đúng nhưng không thực!" Bởi vì, thực vậy, cuối cùng chúng ta sẽ không cần
đến những nguyên tắc, luật lệ chỉ cần giữ chánh niệm là đủ. Nhưng hầu hết chúng
ta không một ai có thể bắt đầu từ kinh nghiệm giác ngộ, vì vậy, chúng ta ít
nhiều phải sử dụng các phương tiện thích hợp để giúp ta quán chiếu và phát
triển chánh niệm. Vì vậy, các kỹ thuật thiền tập, giới luật và v.v… là các công
cụ cần thiết để giúp chúng ta quán chiếu và phát triển chánh niệm.
Cuộc sống tôn giáo là một cuộc
sống của sự từ bỏ. Chúng tôi đang từ khước, từ bỏ, buông bỏ mọi sự. Đối với một
cái tâm thế tục, nghe có vẻ như chúng ta đang giũ bỏ một thứ gì đó, hoặc đang
lên án thế giới của các giác quan, thế giới của những niềm vui và vẻ đẹp mà
chúng ta có thể đã kinh nghiệm qua khi chúng ta còn là những con người bình
thường. Từ bỏ nó, bởi vì chúng ta nhìn thấy nó là bất thiện hay sai. Nhưng từ
bỏ không phải là sự chỉ trích về mặt luân lý để chống lại bất cứ điều gì. Thay
vào đó, nó là một sự di chuyển ra khỏi sự phức tạp đang làm cho cuộc sống rối
rắm, để tiến đến sự đơn giản tuyệt đối của chánh niệm thuần khiết trong khoảnh
khắc hiện tại, bởi vì giác ngộ là ở đây và bây giờ, Chân lý là bây giờ. Sẽ
không có bất cứ ai có thể trở thành một thứ gì đó, sẽ có không có bất cứ ai
được sinh ra hoặc ai đó sẽ chết đi - chỉ có hiện tại vĩnh hằng. Sự tỉnh giác
này là những gì chúng ta có thể có được khi chúng ta không còn dính mắc vào
những hình tướng bên ngoài hoặc các xu hướng hình thành theo thói quen của
chúng ta, để sẵn sàng cho một sự quán chiếu đơn giản vào trong từng khoảnh khắc
hiện tại.
Nay chúng ta nói như vậy và chúng
ta có thể hiểu được điều chúng ta nói vì nó nghe có vẻ khá đơn giản. Tuy nhiên,
tâm của chúng ta có xu hướng làm cho sự việc trở thành vấn đề. Chúng ta không
có đủ đức tin, niềm tin , hay sự sẵn sàng để buông bỏ mọi thứ chỉ để cho khoảnh
khắc hiện tại này. Vì vậy, lời tuyên bố: "giác ngộ hiện tiền" có thể
tạo ra một cảm giác không chắc chắn hoặc sự hoang mang. Có nhiều ý kiến khác
nhau về sự giác ngộ: ngay tức khắc hoặc từ từ. Một số có thể nói: "Giác
ngộ ngay tức khắc” , trong khi những người khác nói rằng việc đó phải thực hiện
dần dần, từng bước một, kiếp này sang kiếp khác. Cả hai ý kiến này đều thực nhưng
không đúng, đúng nhưng không thực. Chúng là những cách khác nhau của sự quán
chiếu và suy niệm trên kinh nghiệm của chúng ta đối với khoảnh khắc hiện tại. Ý
tưởng giải thoát ngay tức thời rất hấp dẫn đối với những đầu óc hiện đại: Chỉ
một viên LSD (loại ma túy mạnh, gây ra ảo giác) và chúng ta ở đó- không cần
phải đi qua sự huấn luyện trong tu viện hoặc phải từ bỏ bất cứ một thứ gì; giải
thoát ngay tức thời!
Nhưng chúng ta phải nhận ra những
hạn chế của cái tâm suy nghĩ. Những khái niệm này – (giác ngộ) ngay tức khắc và
(giác ngộ) từ từ chỉ là những cách quán chiếu, chúng không phải là thái độ của
chúng ta. Lấy chính từ 'giác ngộ' để làm ví dụ: Có thể chúng ta thấy nó như là
một kinh nghiệm hoàn toàn tuyệt vời mà chúng ta có được một cách trọn vẹn từ
ánh sáng chánh niệm, chúng ta hoàn toàn được chuyển đổi từ một kẻ ích kỷ, dối
trá thành một con người trí tuệ hoàn hảo – chúng ta thấy nó như một cái gì đó
rất tuyệt vời và vĩ đại. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta cảm thấy rằng chúng ta
không thể đạt đến một trình độ cao như vậy, bởi vì chúng ta nhìn nhân cách của
chúng ta bằng con mắt rất tiêu cực. Chúng ta có xu hướng coi trọng những sai
trái, lỗi lầm, điểm yếu, những thói quen xấu của chúng ta, đây là những thứ
được xem như các chướng ngại đối với kinh nghiệm giác ngộ. Bạn không nên tin
cậy vào những suy nghĩ như vậy, không nên có thái độ như vậy. Vì vậy, tôi
thường nói với mọi người: "Dù bạn nghĩ rằng bạn đang là gì, bạn không phải
là những gì bạn đang nghĩ!"
Mục đích của thiền Phật giáo là
để gỡ bỏ những chuẩn mực đã lập trình cho tâm, điều này không có nghĩa là chối
bỏ, hoặc giũ sạch hoặc xét đoán chúng. Chỉ có nghĩa là không tin vào những
chuẩn mực này và không theo chúng nữa, thay vào đó chúng ta lắng nghe chúng như
Pháp- những đối tượng của tâm, chúng sinh khởi và hoại diệt - Với thái độ tinh
cần tỉnh giác, chúng ta học để tin cậy vào việc làm một người lắng nghe, người
quan sát, hơn làm một kẻ đang cố gắng hành thiền để có được một loại kết quả
nào đó.
Khi chúng ta đặt nặng tính cách
của chúng ta, chúng ta sẽ tạo ra vấn đề, bởi vì mỗi người chúng ta có những
phẩm chất cá nhân khác nhau. Chúng ta có những vấn đề phổ biến của con người:
Tuổi già, bệnh, chết, đàn ông có những một số vấn đề chung nào đó, phụ nữ có
một số vấn đề chung nào đó. Nhưng cũng có những thái độ, kỳ vọng và giả định về
mặt văn hóa nào đó làm khuôn mẫu cho sự phát triển của tâm, và thấm nhuần sâu
vào trong mỗi chúng ta sau khi chúng ta sinh ra.
Thông qua chánh niệm, chúng ta có
thể có được vượt lên trên những khuôn mẫu này để có được một tâm thức thuần
khiết không bị nhào nặn, rập khuôn theo các chuẩn mực, giống như một cái phông
nền, một sự trống không, một tờ giấy trắng trên đó các chữ sẽ được viết lên.
Những nhận thức của chúng ta sinh khởi và hoại diệt trên tờ giấy trắng ấy, trên
cái trống không ấy. Vì vậy, hãy quán chiếu điều này. Khi chúng ta bắt đầu lắng
nghe và nhìn nhiều hơn, thay vì chỉ cố gắng để đạt được một số trạng thái định
như chúng ta đã đọc về chúng trong sách; khi chúng ta thư giãn, và nhìn, và
lắng nghe, khả năng kinh nghiệm được sự trống không ấy của chúng ta lớn hơn rất
nhiều.
Chúng ta sử dụng những từ như
buông bỏ và từ bỏ, những từ này nghe có vẻ nặng nề đối với tâm của những con
người thế tục, nhưng nó không phải là một hành động nặng nề của sự hủy diệt hay
tiêu hủy. Thay vào đó, nó là một sự sẵn sàng để buông bỏ mọi thứ, mọi thứ như
thế nào để như thế ấy, để cho chúng chấm dứt - không nắm giữ hoặc đồng hóa
chúng với bất cứ điều gì, chỉ tin vào trạng thái thuần khiết của sự tinh cần
tỉnh giác trong khoảnh khắc hiện tại.
Một trong những ảo tưởng lớn của
chúng ta có liên quan đến thiền tập đó là nó là cái mà tôi đang làm, tôi phải
làm. Chúng ta theo các hướng dẫn với ý tưởng rằng chúng ta sẽ đạt được các
trình độ khác nhau về mặt nhận thức, giống như nhận được một bằng đại học. Thật
thú vị khi thấy một số người phương Tây đã trở thành các tu sĩ theo truyền
thống Phật giáo Nguyên thủy, những vị này có thể rất thông minh và có học vị
cao, nhưng bởi vì cái cách mà tâm trí của họ đã được “lập trình”, họ luôn có xu
hướng giải thích đời sống Thánh thiện dưới dạng thành tựu cá nhân - trở thành
ai đó đặc biệt, mặc dù nguyên tắc trong truyền thống tu viện của chúng tôi cấm
chúng tôi đi loanh quanh và công bố thành tựu của mình.
Ở Thái Lan, mọi người đều nói
rằng Ajahn Chah là một vị A La Hán - mặc dù ngài không bao giờ nói như vậy. Rồi
người ta thấy ngài hút một điếu thuốc, và họ nghĩ rằng, "Bậc Thánh A La
Hán không hút thuốc, ngài không thể là một bậc Alahán!" Một cái tâm đã
được “lập trình” có xu hướng giữ một ý tưởng cứng nhắc về vị A La Hán rằng vị
ấy phải tuyệt đối, hoàn toàn thánh thiện, tốt, đàng hoàng, không làm bất cứ
việc gì thô lậu, nhưng phải luôn luôn hoàn hảo trong cách nói và cách sống.
Chúng ta muốn họ hoàn hảo theo quan niệm của chúng ta, vì vậy khi chúng ta thấy
bất kỳ một khiếm khuyết nào ở họ, chúng ta đâm ra chỉ trích, thất vọng, vỡ mộng
và nghi ngờ về họ.
Nhưng đây là một chức năng của
tâm chúng ta. Chúng ta đang tạo ra các vị A La Hán của chính chúng ta, và do đó
bất cứ điều gì chúng ta tạo ra trong tâm trí của chúng ta có thể dễ dàng trở
nên trái ngược với thực tế. Vì vậy những gì chúng ta có thể làm là quan sát
toàn bộ tiến trình hình thành ý nghĩ này trong chính tâm của chúng ta - sự sáng
tạo của chúng ta về một con người lý tưởng, một vị thầy lý tưởng cụ thể là như
thế nào. Chúng ta bắt đầu xem xét bởi đâu đó chỉ là một sự lý tưởng. Các lý
tưởng hoàn hảo luôn luôn giống nhau, giống như một hình ảnh làm bằng đá cẩm
thạch. Nếu, nói, một vị thầy làm một điều gì đó là hoàn toàn trái ngược với
những gì chúng ta cho là nên làm, ngược với những gì chúng ta tưởng tượng về
một con người hoàn hảo, có thể chúng ta sẽ cảm thấy khá buồn bã hay thất vọng.
Vì vậy, chúng ta có thể thấy mình phải đối phó với cảm giác tiêu cực này theo
một cách nào đó , để biện minh cho nó: "Ông ấy có thể hành xử như thế bởi
vì ông ấy là một bậc giác ngộ". Chúng ta sẵn sàng bỏ qua cách cư xử thô
hoặc xấu, hoặc tồi tệ hơn vậy vì chúng ta không cho phép nghi ngờ phát sinh
trong tâm trí của chúng tôi về con người đó. Hoặc, ở một thái cực khác, chúng
ta nghĩ rằng: "Đó là một người xấu, con người đó chẳng thể nào giác ngộ
được." Chúng tôi bác bỏ chúng.
Nhưng nếu chúng ta tiếp tục quan
sát vấn đề dưới ánh sáng của chánh niệm, chúng ta thấy rằng việc đưa ra một
phân loại đạo đức đối với người khác hoặc đối với vị thầy của mình thực ra
không phải là nhiệm vụ của chúng ta. Đánh giá họ tốt hay xấu không phải là việc
của chúng ta, và chúng ta cảm thấy nhẹ nhõm. Với thực hành chánh niệm, những gì
chúng ta luôn có thể làm là lắng nghe và nhận biết rõ cái tâm bị lập trình của
mình đang phản ứng với bất cứ điều gì mà chúng ta đang trải qua.
Năm giới cung cấp một chuẩn mực
đạo đức cho việc thiết lập chánh niệm. Chúng ta có thể sử dụng chúng như là các
tiêu chuẩn hoặc nguyên tắc chỉ đạo cho hành động và lời nói của chúng ta. Chúng
sẽ giúp chúng ta giữ chánh niệm. Trong khi đó, ý tưởng muốn được tự do và làm
bất cứ điều gì chúng ta muốn, cho tới khi nào chúng ta còn giữ chánh niệm, chỉ
là một sự lý tưởng, phải vậy không? Đây cũng là một vấn đề “đúng nhưng không
thực”: nó đúng nhưng không nhất thiết lúc nào cũng phải thực. Nếu chúng ta hiểu
được tinh thần như vậy, chúng ta có thể sẽ không còn vướng mắc bất cứ điều gì.
Ví dụ, chúng ta có thể nghĩ rằng
một người có thể rất chánh niệm trong khi cướp một ngân hàng hoặc thực hiện các
vụ giết người hoàn hảo! Gọi là chánh niệm thì thực nhưng không đúng, đúng nhưng
không thực vì những hành động này không được xây dựng trên một chuẩn mực đạo
đức nào , nó chỉ là sự chú tâm của một động vật đang có nguy cơ bị bắt. Tình huống
đó đòi hỏi nó phải thật chú tâm, cảnh giác và tỉnh táo.
Điều này cũng thực trong tình
huống chúng ta đang ở kề cận với cái chết - như khi leo núi. Chúng ta quên
chính chúng ta và các vấn đề của chúng ta, chúng ta thực hành chánh niệm đúng
bài bản một cách tự động, ngay trong khoảnh khắc này. Có một niềm hưng phấn
trong trạng thái tâm đó bởi vì chúng ta đang ở xa khỏi sự và ảm đạm và xám xịt
của cuộc sống hàng ngày. Nhận thức của chúng ta trở nên rất tập trung và chúng
ta có định tâm. Nhưng chúng ta không phải lúc nào cũng sống một cuộc sống cận
kề với cái chết. Hầu hết cuộc sống của chúng ta không có gì đặc biệt thú vị. Nó
chỉ như vậy và như vậy thôi. Chúng ta làm những việc bình thường. Chúng ta ăn ,
chúng ta tắm, chúng ta mặc quần áo, cởi quần áo, chúng ta phải nấu ăn, rửa
chén, hút bụi các tấm thảm, rửa xe, cho mèo ăn, đi làm, và phải sống hòa thuận
với người phối ngẫu và con cái của chúng ta, với đồng nghiệp của chúng ta. Vào
một ngày đặc biệt như một kỳ nghỉ, chúng ta có thể làm một cái gì đó thú vị như
leo các tảng đá.
Thiền không phải là một kinh
nghiệm cực đoan, không phải một thứ gì thực sự nguy hiểm, buộc chúng ta phải
cẩn trọng. Chúng ta thường hành thiền ở những nơi an toàn. Chúng ta ngồi, đứng,
đi bộ hoặc nằm xuống, và chúng ta quan sát thân ta đang thở. Mục đích đơn giản
là chỉ để quan sát các xu hướng được hình thành từ thói quen của chúng ta như
là những đối tượng sinh khởi và hoại diệt. Trong trạng thái này, những nỗi sợ
hãi và cảm xúc bị đè nén có thể trồi (từ vô thức) lên bề mặt ý thức, nhưng thay
vì bỏ qua và làm một cái gì đó khiến chúng ta mất tập trung để cố tình lãng
tránh chúng, chúng ta bắt đầu nhận biết chúng. Chúng ta càng ngày càng sẵn sàng
nhận biết những gì chúng ta không thích hoặc không muốn nhận biết, và qua sự
sẵn sàng để nhận biết chúng đó, chúng ta buông bỏ chúng. Chúng ta từ bỏ chúng,
không đàn áp chúng, nhưng để yên chúng.
Tính cách, ý thức về bản thân
mình, những nỗi sợ hãi và mong muốn của tâm, chúng là chúng, chúng ta không cố
gắng để xua đuổi hoặc thêm vào, hoặc tạo ra những vấn đề hoặc những khó khăn
chung quanh chúng. Chúng ta sẵn sàng để cho chúng là chúng. Chúng tạo cảm giác
như thế này, chúng có phẩm chất này, chúng sinh khởi và hoại diệt. Trong sự
ngừng lại đó, chúng ta nhận thức rõ có sự an vui, hạnh phúc -hay sự an bình của
sự hiện hữu - và không có một cái ngã trong đó. Mọi người đều có những tiềm
năng đó, cái khả năng nhận thức được điều này. Chúng tôi mô tả nó đó là sự nhìn
thấy Pháp - quy luật của vạn vật , còn việc chúng ta có trở thành bất cứ cái gì
cũng chẳng quan trọng gì cả.
Đôi khi trong thiền tập chúng ta
kinh nghiệm một khoảnh khắc, hoặc một vài khoảnh khắc, hoàn toàn định tĩnh và
an bình trong tâm, và chúng ta nghĩ rằng, "Tôi muốn nó” nhưng dĩ nhiên nó
sẽ đi! Ngày hôm sau, khi chúng ta hành thiền , chúng ta cố gắng để có lại cái
kinh nghiệm đó - nhưng chúng ta không thể, bởi vì chúng tôi đang cố gắng để có
được một cái gì đó chúng ta nhớ, thay vì tin và để cho mọi thứ rơi rớt đi theo
bản chất thật sự của chúng. Hành thiền không có nghĩa là chúng ta phải là một
cái gì đó, hoặc trở nên bất cứ một cái gì đó. Vì vậy, sau đó, khi không có cái
áp lực đó, khi tâm ta không còn sự ép buộc, chúng ta có thể học hỏi từ chính
cuộc sống, Chân lý sẽ hiển bày ra cho chúng ta.
Chú thích:
Hay biết trực quan: Hay biết đối
tượng y như chúng thực là, thấy sao biết vậy, không khen, không chê, không phê
phán. Với nhận thức này, khi ta quan sát đối tượng, chúng tượng không bị bóp
méo bởi quan kiến hình thành theo thói quen của chúng ta theo những chuẩn mực
đạo đức, luân lý, giáo dục, xã hội... Đây là cái hay biết y như thực có được
qua quá trình thực hành chánh niệm.
Hay biết bình thường: Hay biết
theo thói quen đối đãi khen, chê, phê phán của tâm chúng ta khi mắt vừa gặp
cảnh, tai nghe đối tượng, thân xúc chạm, lưỡi nếm vị… Với nhận thức này, đối
tượng đã bị bóp méo theo quan kiến cá nhân do tâm đã bị “lập trình” theo các
chuẩn mực đúng, sai, tốt xấu ... hấp thu từ truyền thống giáo dục trong gia
đình, học đường, nền văn hóa xã hội… Với nhận thức này, chúng ta không thể nhìn
sự vật y chúng thực là. (ND)
Theo: Who
we really are?
Chuyển ngữ sang tiếng Việt:
Supañña
Xem thêm: 'Vài điều cần biết về "Lý Vô Ngã " (để trả lời câuhỏi "Ta là ai?")'
Xem thêm: 'Vài điều cần biết về "Lý Vô Ngã " (để trả lời câuhỏi "Ta là ai?")'