Việc khen chê ở giữa cuộc đời này
không phải là chân lý. Người được khen nở lỗ mũi, người bị chê xụ mặt, là người
ngu si, là kẻ khờ. Chớ vì sự khen chê mà lấy đó làm cuộc sống, hãy sống hợp lẽ
đạo mà xa lìa khen chê.
1.Khen Chê Không Thật
Xưa vị lai và nay
Ðâu có sự kiện này
Người hoàn toàn bị chê
Người trọn vẹn được khen.
Bình:
Người hoàn toàn bị chê xưa nay và
mai sau chưa từng có. Người trọn vẹn được khen xưa nay và mai sau chưa từng có.
Như kẻ uống rượu, được bạn rượu
khen. Kẻ cướp, được đồng đảng khen.
Những kẻ xấu xa như vậy, vẫn có
người khen, đâu hẳn đã hoàn toàn bị chê.
Rồi hiền như Phật, vẫn bị ngoại
đạo chê. Như chúa Jesus rồi cũng bị đóng đinh trên thập tự giá.
Như vậy để thấy rằng việc khen
chê ở giữa cuộc đời này không phải là chân lý. Người được khen nở lỗ mũi, người
bị chê xụ mặt, là người ngu si, là kẻ khờ. Chớ vì sự khen chê mà lấy đó làm
cuộc sống, hãy sống hợp lẽ đạo mà xa lìa khen chê.
Người Phật tử hãy giữ vững lập
trường mà đừng lầm lẫn giữa khen và chê. Ðừng để cái khen và chê cũng mặc, hễ
biết mình sống hợp đại lý thì thôi.
Mặc người chê, mặc kẻ gièm
Lấy lửa đốt trời thêm nhọc xác.
(Chứng đạo ca)
2. Si Mê Là Gốc Ðau Khổ
Ðêm dài với người thức
Ðường dài với kẻ mệt
Luân hồi dài kẻ ngu
Không hiểu chân diệu pháp.
Bình:
Với người thức không ngủ được,
thấy đêm sao mà dài lê thê.
Với người đi mệt, thấy con đường
nó sao mà dài xa xôi diệu vợi.
Với kẻ ngu thì, thấy cuộc luân
hồi dài đăng đẳng không có ngày kết thúc. Bao nhiêu nỗi khổ đau đè nặng trên
kiếp người. Ở trong cuộc luân hồi không tìm đâu được lối ra. Và khổ thay đã là
kẻ ngu thì có biết đâu là cuộc "luân hồi"! và có bao giờ nghĩ đến
phải ra và tìm đường thoát ra. Nhưng thực trạng cái khổ đau niềm tủi nhục cứ
khắn chặt con người họ, và họ phải tự thấy cuộc đời, cái dòng đời này, thật ê
chề, thật ngao ngán. Sự thật đó chẳng khác nào kẻ thức khuya không ngủ trong
đêm, thấy đêm dài lê thê, và kẻ lữ hành đang trên đường hãy còn xa thăm thẳm, người
mệt, thân nhừ, tất cả việc trước mắt thấy ê chề ngao ngán. Người ngu ở giữa
cuộc đời này là như vậy đó!
Tội nghiệp thay! Con người nào
hay ngoài nỗi cơ cực của kiếp người, còn có đời sống siêu thoát, đời sống an
lành. Ðó là đời sống của người hiểu chân diệu pháp. Không hiểu "chân diệu
pháp" con người sẽ khổ đau mãi mãi trong kiếp luân hồi. Chân diệu pháp
chính là Phật pháp.
3. Biết Ðược Lỗi Mình Mới Khó
Dễ thay thấy lỗi người
Lỗi mình biết mới khó
Lỗi người ta phanh tìm
Như tìm thóc trong gạo.
Còn lỗi mình che đậy
Như kẻ gian giấu bài.
Bình:
Dễ thấy lỗi người việc ấy không
khó, chỉ cần nhìn sơ qua là mình thấy người đó có lỗi rồi. "Vạch lá tìm
sâu, quét nhà ra rác" điều này quá rõ ràng. Thấy lỗi người không khó.
Thấy lỗi mình mới thật là khó. Vì
thông thường mình vốn thương mình, thì có bao giờ mình chịu cho mình là xấu (có
lỗi thì thành xấu), vậy nên có mấy người chịu trở lại tìm lỗi mình, mặt mình
dính lọ thì có bao giờ mình thấy, nếu không có người chỉ, không biết xem gương.
Vậy đó mà với lỗi người thì ta
phanh tìm không bỏ sót. Người ta có giấu mình cũng phải tìm bươi móc cho ra.
Việc này giống như việc lượm thóc trong gạo. Gầm đầu lượm từng hạt, lượm thật
kỹ. Cái tật này gần như muôn đời ở một con người. Ðó là gần như bản chất, một
thứ bản chất xấu xa tồi bại. Nó được coi là rất trái với thánh đạo.
Ngược lại, với lỗi mình thì bưng
bít, che đậy giống như người cờ gian bạc lận, giấu đi con bài của mình v.v...
để phòng thủ thắng kẻ khác. Một sự giấu giếm thật khéo léo thật tinh vi.
Cái tật chúng sinh là như vậy.
Mấy ai chịu gan dạ phơi bày lỗi mình.
Ðức Phật đã nói như vậy, là trước
chỉ cho con người thấy rõ sự lầm lẫn của mình, thấy rõ ngõ ngách của tâm hồn
mình. Thấy rồi để mà khéo chừa đi. Là một Sa Môn, một người tu chớ có thấy lệch
lạc như vậy. Mà lúc nào người Sa Môn cũng phải biết rõ lỗi của mình đẻ phát lồ
sám hối. Phát lồ tức là phơi bày lỗi lầm, không giấu giếm, mà đưa ra trình lên
tước đại chúng, nhận khuyết, nhận lỗi cầu xin sám hối.
Ngài Huệ Năng đã dạy: Thường biết
lỗi mình, chớ biết lỗi thế gian.
Tu là cốt để biết rõ mình. Muốn
biết rõ mình phải "biết lỗi" mình. Tu mà không biết lỗi mình thì
không bao giờ tu tiến được. Những lỗi hiện đời và lỗi từ vô thủy, biết bao lỗi,
thế mà không biết, thì sao gọi là tu? Tu là sửa. Sửa là sửa lỗi. Sửa lỗi thành
không còn lỗi nữa gọi là tu. Không như vậy, gọi tu là tu làm sao?
Vậy chớ có biết lỗi người. Phải
thường biết lỗi mình. Ðược vậy trong tương quan cuộc sống mình không bị thiên
hạ ghét. Mình không nói lỗi người thì ai ghét mình. Và trong việc tu hành, ngày
càng tiêu được tội lỗi, nghiệp chướng vơi đi, tâm trí ngày càng sáng thêm. Niềm
an vui ngày càng rộng mở. Cuộc sống ngay đó được hạnh phúc. Không cầu mà được.
4. Thắp Sáng Trí Huệ
Như giữa đống rác nhớp
Quăng bỏ ngoài đường lớn
Chỗ ấy nở hoa sen,
Thơm sạch đẹp lòng người.
Cũng vậy giữa quần sanh,
Uế, nhiễm, mù, phàm tục,
Ðệ tử bậc chánh giác
Sáng ngời với trí tuệ.
Bình:
Trong chỗ nhơ nhớp mà sanh hoa
sen. Hoa nở thơm sạch lòng người.
Ở trong các pháp thế gian: khổ,
không, vô thường, vô ngã, bốn điều này người thế tục cho là thường, lạc, ngã,
tịnh. Ðó là bốn việc: vô thường không phải thường, vô ngã không phải ngã, khổ
không phải lạc, nhớp không phải tịnh. Vậy mà họ thấy thường, lạc, ngã, tịnh,
cái thấy như vậy là không đúng sự thật. Như bàn tay trắng mà thấy là bàn tay
đen. Thấy như vậy là thấy mù. Một cái thấy hoàn toàn không đúng sự thật.
Với các pháp giữa này, người phàm
tục đều thấy như vậy, nên gọi là mù.
Từ cái thấy mù như vậy mà chấp
lấy các thứ uế nhiễm của thế gian làm sự sống. Chính vì bằng cái thấy mù tối
như vậy, nên các pháp ấy đã trở nên trói buộc, làm thống khổ cho người. Ðã dính
mắc vào nó mong gì thoát ra, càng giẫy giụa nó càng khắn chặt. Như những con
rắn đã quấn vào mình mà càng vùng vẫy thì nó càng siết cứng và cắn rứt.
Ngược lại đối với bậc đệ tử bậc
Chánh giác, hàng Sa Môn, đối với các vật gọi là uế nhiễm: khổ, không, vô
thường, vô ngã. Thấy đúng như thật. Cái thấy ấy như đầu đen thấy là đen, bàn
tay trắng thấy là trắng. Thấy như vậy là cái thấy của con mắt sáng. Thấy đúng
như thật. Cái thấy đó là trí tuệ.
Ở trên tướng uế nhiễm mà thấy
đúng như thật, thì ngay đó đã được giác ngộ đúng đắn, tức được chánh giác. Cái
thấy đó là sáng ngời trí tuệ, đâu còn lầm lẫn nữa. Vì vậy mà giải thoát được
ngay trên nó, giải thoát vươn lên tỏa rộng đời sống thanh tịnh ngay trên nó, có
khác gì hoa sen mọc lên nở đẹp gữa nơi nhơ nhớp.
Từ cái thấy này, nếu ở trong pháp
Ðại thừa, tức thấy rõ "Phiền não tức bồ đề". Ngay chúng sanh tức Phật.
Ngay cảnh giới chúng sanh nhơ xấu, tức là cõi Phật thanh tịnh đủ bốn tánh:
Thường, lạc, ngã, tịnh. Và để phân biệt bốn tánh: Thường, lạc, ngã, tịnh của
chúng sanh (bốn cái thường không thật) gọi đây là Chơn thường, Chơn lạc, Chơn
ngã, Chơn tịnh.
5. Cội Gốc Luân Hồi
Không có một pháp khác
Quần sanh bị bao phủ
Ngày đêm chạy luân chuyển
Như bao bọc bởi si
Và ai phá được si
Ðâm thủng khối u ám
Chúng không lưu chuyển nữa
Trong chúng, nhân không còn.
Bình:
Tất cả chúng sinh sỡ dĩ bị luân
chuyễn trong sáu đường không có ngày cùng, đều bởi không thấy được lẽ thật mà
khởi tâm điên đảo chớ không có gì khác. Không thấy được lẽ thật tức gọi là si
vậy. Cho nên đầu tiên Phật dạy hàng Tỳ Kheo phải thấy rõ Tứ đế như thật. Tiến
lên dùng trí Bát Nhã soi thấy năm uẩn đều không. Cả hai đều khởi đầu bằng trí
tuệ, nghĩa là thấy mình đúng như thật, thấy sự vật đúng như thật, thấy sự vật
đúng như thật tức phá được si, dứt nhân luân hồi.
Nguồn: phatgiaolaocai.net