Đệ tam giác tri: Tâm vô yểm túc,
duy đắc đa cầu, tăng trưởng tội ác. Bồ tát bất nhĩ, thường niệm tri túc, an bần
thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp.
Dịch nghĩa:
Điều giác ngộ thứ ba: Tâm nếu
không biết đủ, chỉ lo việc tham cầu, sẽ tăng thêm tội ác. Bồ tát không như vậy,
thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp.
Giảng giải:
Điều giác ngộ thứ hai: Đa dục là
căn bản của sinh tử. Còn điều giác ngộ thứ ba: Tri túc là căn bản để gìn giữ
đạo nghiệp. Muốn lìa sinh tử, đầu tiên phải trừ dục; muốn tu chính đạo, trước
hết phải tri túc. Người không tri túc, cho dù tu hành bao lâu năm, vẫn không có
ngày thành tựu.
Tâm của chúng sinh không bao giờ
thấy thỏa mãn đối với những gì mình đã có được. Tiền bạc có một trăm lại nghĩ
đến một ngàn, được một ngàn lại đòi lên một vạn! Quan vị là quận trưởng mong
làm tỉnh trưởng, lên tỉnh trưởng lại muốn làm bộ trưởng!
Có một bài ca nói thật đúng cái
tâm không biết đủ của con người:
Suốt ngày bận rộn cũng chỉ vì
Lo ăn, lo mặc chuyện áo y
Ăn mặc đủ rồi, lại suy nghĩ:
Phòng trung còn thiếu vợ đương thì!
Vợ đẹp, hầu non đều đủ cả
Ra vào xe ngựa lấy đâu đi?
Ngựa đã thành bầy, xe đã sẵn
Lại lo ruộng ít, khó thu chi!
Mua được ruộng vườn trăm vạn mẫu
Sợ không quan chức bị người khi!
Tam phẩm, tứ phẩm còn chê nhỏ
Ngũ phẩm, thất phẩm có ra gì.
Nhất phẩm vừa lên quan tể tướng
Lại muốn làm vua, chắc có khi?
Thỏa lòng lên được ngôi thiên tử
Mơ ước thành tiên sống trường kỳ!
Tham vọng leo thang không dừng nghỉ
Vô thường chợt đến, ôm hận đi!
Đây là nói về một người sống
trong dục vọng, không bao giờ biết đủ về giàu sang, công danh, để kiếp người
đáng qúi trôi qua trong phiền não khổ đau.
Tai họa trên thế gian, tội ác
trong cuộc sống đều do tâm không biết đủ này mà ra. Mọi người ai cũng biết:
Một mai vô thường đến
Mới hay mộng huyễn thân
Muôn việc đem chẳng được
Chỉ nghiệp theo thức thần!
Nhưng họ sống một ngày là lại
tham cầu một ngày!
Theo truyền thuyết, ông Lữ Động
Tân vốn là vị tu tiên về sau qui y Phật giáo. Một hôm, ông chợt khởi lên ý
tưởng muốn thử căn cơ chúng sinh, xem có thể hóa độ được không. Ông liền hóa
làm một ông lão xuống phàm trần và gặp một đứa trẻ. Ông bước đến hỏi:
- Này chú bé, chú muốn gì? Chỉ
cần chú nói cho tôi biết, tôi sẽ làm vừa lòng chú!
Chú bé ấy suy nghĩ, cái quí nhất
trong đời không gì hơn vàng, có vàng chuyện gì làm cũng xong, nên đáp:
- Tôi muốn có một khối vàng!
Lữ Động Tân liền chỉ ngón tay vào
tảng đá bên cạnh, khối đá bổng nhiên biến thành khối vàng! Ông nói:
- Này chú nhỏ, hãy mang khối vàng
này đi, xem như là lễ ra mắt của chúng ta!
Chú bé ấy ngạc nhiên đến sững
người trước việc chỉ đá hoá vàng của Ngài, nhưng sau khi suy nghĩ một lát, lại
nói:
- Tôi không muốn khối vàng này!
- Vì sao không muốn?
- Tôi chỉ muốn ngón tay của Ngài!
- Ngươi muốn ngón tay ta để làm
gì?
- Vừa rồi Ngài nói sẽ làm vừa
lòng tôi. Khối vàng này có lúc sẽ xài hết, nếu Ngài cho tôi ngón tay, lúc cần
tiền chỉ việc dùng nó để chỉ đá hóa vàng, sẽ mặc sức tiêu xài!
Chú bé này tâm không biết đủ,
không nhận ra tấm lòng của người tốt khiến cho Lữ Động Tân vô cùng thất vọng.
Ngài chỉ còn biết than chúng sinh khó độ mà thôi!
Chúng sinh tâm không biết đủ, chỉ
lo tham cầu, tăng thêm tội ác là một điều không thể phủ nhận. Tham dục càng
nhiều, tội lỗi càng lắm. Không ai biết nghĩ đến:
Ngàn gian nhà rộng thênh thang
Đêm nằm ngủ chỉ vài gang là vừa Tiền muôn bạc vạn thải thừa Ngày ăn ba bữa, cất
chừa làm chi?
Đàng sau gia tài đồ sộ kia, không
biết che dấu biết bao tội ác! Bên trong địa vị cao sang đó, ai hay ẩn chứa thật
lắm âm mưu! Những tham cầu phi pháp, làm tăng thêm tội lỗi, tóm lại có mấy điểm
như sau:
Lấy trộm tài vật của người:
Ví dụ như ăn trộm, ăn cướp, làm
thổ phỉ chuyên cướp đoạt tài vật của người để sống.
Chối bỏ trách nhiệm:
Như mượn đồ vật của ai, đến kỳ
không trả, lại chối nói không có, hay đổ thừa, hại người lợi mình
Nuốt lời gửi gắm:
Ví dụ có người bận việc đi xa,
gửi đồ cho mình trông coi hộ. Đến khi họ trở về lấy lại, mình phủ nhận, rồi
chiếm làm của riêng.
Dối lấy của chung:
Ví dụ hai người cùng hùn vốn làm
ăn, khi có lợi nhuận đáng lẽ phải chia đều, mà mình vì muốn hưởng nhiều hơn,
nên số lời nhuận đúng ra là mười triệu mà chỉ nói có năm triệu.
Thừa cơ chiếm dụng:
Ví dụ biển thủ của công, giảm bớt
giờ làm, ăn xén vật liệu, mượn của công làm việc tư v.v….
Cậy thế lực lấy của người:
Ví dụ như tham ô, dùng thủ đoạn
qua mặt pháp luật, mượn thế lực chèn ép, cưỡng đoạt của người ta, khiến cho họ
không dám kêu ca.
Kinh doanh phi pháp:
Như mở quán rượu, vũ trường hay
giết heo mổ trâu, hoặc buôn bán các dụng cụ sát sinh.
Lòng người không biết nhàm đủ,
nên việc tham cầu phi pháp là điều không thể tránh khỏi. Thực ra, y phục vốn là
để che thân và ngăn gió lạnh, nhưng người có tiền lại đòi hỏi quần là áo lụa,
nhung gấm hoa hòe; cơm ăn vốn cho khỏi đói, nhưng người có tiền lại muốn mâm
cao cỗ đầy, sơn hào hải vị; chỗ ở vốn để tránh gió che mưa, nhưng người có tiền
lại muốn nhà cao cửa rộng, trang hoàng lộng lẫy; về mặt giải trí thì núi sông
hoa cảnh trong thiên nhiên người ta không cho là đủ, lại còn rượu chè, khiêu
vũ, bài bạc đủ thứ . Vật chất hữu hạn mà dục vọng con người lại vô cùng thì làm
sao thỏa mãn cho được? Do đó con người cứ chạy theo lòng dục, luôn mãi tìm cầu,
bất kể thủ đoạn, hại người lợi mình, gây ra vô số tội ác.
Phàm phu trong vòng điên đảo do
tâm không biết đủ nên tham cầu nhiều điều phi pháp. Nhưng bậc Bồ tát tu hành
lại thường nhớ đến tri túc, vui cảnh nghèo giữ đạo, lấy tuệ làm sự nghiệp. Pháp
sư Đạo An đời Tấn là vị công thần bậc nhất trong lịch sử Trung Quốc. Một hôm có
cư sĩ là Khích Siêu sai người dâng Ngài một ngàn hộc gạo trắng để cúng vào ngôi
Tam Bảo. Trong chùa không có kho lương thực lớn nào có thể chứa đủ số lượng
nhiều như thế. Ngài Đạo An phải dành ra ba ngôi nhà lầu mới để hết một ngàn hộc
gạo. Nhân đó Ngài viết thư trả lời cư sĩ Khích Siêu, trong đó có đoạn viết:
"Nhờ ông cúng cho chúng tôi một ngàn hộc gạo, nhưng cũng vì thế mà tăng
thêm phiền hà cho việc chứa cất!"
Bất cứ ai cũng hiềm của cải ít,
mà Đạo An lại hiềm của cải nhiều! Đây là tâm lượng của bậc Thánh giả, là thái
độ của Bồ tát đối với thế gian.
Bậc tu đạo giác ngộ đối với vật
dục thế gian cho rằng: Tham cầu nhiều, kết quả sẽ bần cùng; hoan hỷ xả bỏ, sẽ
giàu có hạnh phúc. Của cải nhiều thì tâm làm tôi mọi cho hình hài, cuộc sống
không sao an tĩnh được!
Một người không biết tri túc, tâm
đam mê ngoại cảnh, hễ tham tài lợi thì sinh mạng nằm trong tay của tài lợi; hễ
tham sắc đẹp thì sinh mạng nằm trong tay của sắc đẹp! Người tham lam cần phải
biết, ngay thân mình còn không giữ được, huống chi của cải là những thứ bên
ngoài? Như các tay cự phú bao đời mà nay có còn đâu? Nếu biết tri túc thì sinh
mệnh mới an định, cuộc sống mới thực sự an lạc.
Thuở xưa có một người cưỡi la ra
ngoài dạo chơi, gặp một người cưỡi ngựa đi phía trước, trong lòng rất ưa thích,
mong ước có được con ngựa cao to như thế để cưỡi. Nhưng liền đó anh ta quay đầu
lại nhìn thấy một người đang cực nhọc đẩy xe mồ hôi như tắm. Anh suy nghĩ chu
đáo, tâm tham muốn liền lắng dịu, rồi cảm khái thốt lên bài thơ:
Người khác cưỡi ngựa, mình cưỡi la
Tủi thân sao lại kém người ta?
Quay đầu chợt gặp ông xe đẩy
Mới thấy vẫn còn hơn người xa!
Điều này cho thấy, nếu chúng ta
nhìn người giàu sang hơn mình, sẽ bất bình, sinh tâm không biết đủ. Nhưng nếu
ta so với người nghèo hèn hơn, sẽ tự nhiên không còn tham cầu, không tạo nghiệp
xấu. Câu biết đủ thường an lạc thật đáng cho người học đạo chúng ta ghi lòng
tạc dạ!
Người giác ngộ luôn luôn là người
tri túc nên không tham cầu phi pháp. Bồ tát giác ngộ không phải là không cần
tiền, mà là khéo biết dùng tiền. Tiền bạc tích trữ thì không phải thuộc về
mình, tiền bạc dùng vào việc có ích mới thuộc về mình. Cho nên cách người giác
ngộ xử lý tiền bạc như sau:
Mười phần tiền của kiếm được, hai
phần dùng vào việc phước thiện, bố thí cúng dường; hai phần chi dụng trong cuộc
sống hàng ngày; hai phần để dành phòng khi già cả, yếu đau, và lúc cần gấp. Còn
lại bốn phần dùng vào việc kinh doanh để phát triển gia nghiệp.
Phật Pháp nói tiền bạc là sở hữu
chung của năm nhà:
1. Nhà vua quan: Bọn tham quan ô
lại có thể dựa vào quyền thế để tước đoạt của cải chúng ta.
2. Nhà lửa nước: Tai nạn lũ lụt,
hỏa hoạn có thể cuốn trôi, đốt sạch của cải chúng ta trong một buổi.
3. Nhà trộm cướp: Trộm cướp lén
lấy trộm hay ngang nhiên cướp đoạt của cải chúng ta.
4. Nhà chiến tranh: Gặp lúc chiến
tranh khói lửa, nhà cửa ly tán, của cải càng nhiều càng lo sợ, nguy hiểm.
5. Nhà con cái: Gặp con cái bất
hiếu, phá tán gia tài, khiến tan nhà nát cửa.
Tiền của chính thuộc về năm nhà
này. Người tri túc vì biết: Người ta ăn thì còn, còn mình ăn thì hết, nên không
chỉ cất chứa, hưởng thụ riêng cho mình, mà còn biết bố thí cúng dường để vun
trồng cội phước và làm những việc lợi ích. Của cải đó mới là chân thật của
mình.
Thời Chiến Quốc vua Tề Tuyên
Vương muốn bái Nhan Xúc làm thầy, nên nói với ông rằng:
- Chỉ cần Ngài nhận tôi làm đệ
tử, sống chung với tôi, thì mỗi ngày sẽ ăn cao lương mỹ vị, mặc toàn lụa là gấm
vóc, ra ngoài có kiệu xe đưa rước, lại thêm có mỹ nhân hầu hạ.
Nhan Xúc thản nhiên đáp:
- Cảm ơn lòng tốt của Ngài, nhưng
tôi không mong làm thầy của vua. Tôi chỉ mong được thảnh thơi ăn cơm, thì ngon
đồng như ăn thịt; ra đường từ từ dạo bước, nào khác với việc đi xe; an phận giữ
mình, không làm điều sai quấy, thì đó là tôn quí; đời sống thanh tịnh, phàm làm
việc gì đều không trái với đạo lý, thì đó là an lạc, hạnh phúc.
Tri túc như Nhan Xúc mới không bị
thế gian làm nhục. Người tu hạnh Bồ tát có thể sống yên vui trong cảnh nghèo
vẫn giữ đạo thanh tịnh, lấy việc cầu trí tuệ giải thoát làm sự nghiệp cả đời
mình. Đại sư Huệ Năng giã gạo chuyên cần. Thiền sư Bách Trượng một ngày không
làm, một ngày không ăn. Luật sư Hoằng Nhất mấy mươi năm mặc một chiếc áo bông.
Hòa thượng Hư Vân lúc ở chùa Chân Như chỉ uống nước thay cơm mà không khuất phục
trước thế lực ác. Học được tinh thần vui nghèo giữ đạo của các vị đó mới có thể
thực sự thấu hiểu được cuộc sống, tận dụng được cuộc sống!
Bồ tát tu học Phật Pháp không
nhất thiết phải nghèo khổ mới gọi là thanh cao. Trong Phật giáo có rất nhiều vị
trưởng giả giàu có. Nếu bên trong tham dục không trừ, bề ngoài làm ra vẻ khổ
hạnh, đây là điều cần phải tránh!
Trong Phật giáo, cũng không phải
dạy chúng ta không cần tiền, mà dạy chúng ta nên có tiền của chính đáng, dùng
vào chỗ chính đáng. Nếu tiền của có được và sử dụng một cách chính đáng, thì có
càng nhiều lại càng tốt! Nếu là tiền của không chính đáng, dầu một đồng xu cũng
không lấy.
Thuở Phật còn tại thế, một hôm
Ngài và A Nan cùng đi trên đường, gặp một khối vàng không biết là của ai đánh
rơi. Đức Phật thấy rồi quay sang A Nan bảo:
- Này A Nan, ông có thấy không?
Rắn độc đó!
A Nan
đáp:
- Bạch Phật con có thấy. Quả là
rắn độc!
Đức Phật và A Nan đi khỏi, hai
cha con nông dân đang làm ruộng nghe nói rắn độc, bèn hiếu kỳ bước lại xem thử,
song không ngờ đó lại là một khối vàng! Hai người hết sức vui mừng, cười thầm
thầy trò đức Phật thấy của qúi mà không biết. Họ bèn mang khối vàng về nhà, cho
rằng nay mai sẽ phát tài. Không bao lâu, nhà vua biết vàng bạc trong kho có
người trộm mất nên ra lệnh điều tra. Đội điều tra tìm thấy trong nhà hai cha
con có khối vàng ròng, thật không cách gì chối khỏi tội trộm, khi chứng cứ đã
rành rành. Do đó họ bị bắt giam vào ngục, khép vào tử tội. Hai cha con nông dân
thấy mình thật oan uổng, mới nhớ lại lời đức Phật nói với A Nan quả không sai.
Người cha bèn đóng vai đức Phật, nói với con rằng:
Này A Nan, ông có thấy không? Rắn
độc đó!
Người con đáp:
Bạch đức Phật, con có thấy. Quả
là rắn độc!
Quan coi ngục nghe hai cha con
hỏi đáp rất lấy làm kỳ lạ, nên cho thẩm vấn lại, điều tra kỹ lưỡng mới biết họ
bị oan.
Hai cha con người đó vì cất chứa
vàng bạc mà làm hại mình. Họ lại nhờ nhớ được lời Phật và A Nan đối đáp về đạo
lý vui nghèo giữ đạo mới được cứu thoát. Qua đó ta thấy, của cải không phải
phần mình không nên lấy, vui nghèo giữ đạo mới là cách sống an ổn chân chính.
Tiền bạc là rắn độc, nhưng sống
không thể thiếu tiền bạc. Cho nên tiền bạc cũng là tư lương của người học đạo.
Đây chỉ là vấn đề sử dụng tiền bạc đúng hay không đúng mà thôi! Dùng tiền bạc
để lo sự nghiệp xây dựng hạnh phúc cho mọi người; dùng tiền bạc để hộ trì việc
tu học, bồi dưỡng giới thân tuệ mạng của tăng ni, thì tiền bạc không phải là
rắn độc mà là tịnh tài!
Bậc Thánh giả vui nghèo giữ đạo,
lấy trí tuệ làm sự nghiệp, thì không nên cất chứa rắn độc, song nên biết dùng
tịnh tài để lo việc Phật sự.
Dịch Thơ:
Điều thứ ba biết tâm giong ruổi
Luôn tìm cầu, đeo đuổi chẳng nhàm
Không sao thỏa được lòng tham
Tội kia theo đó, càng làm càng sâu
Bậc Bồ tát vô cầu, biết đủ
Vui phận nghèo, qui củ tu hành
Trau dồi tuệ nghiệp lợi sanh
Vung gươm trí tuệ, cắt mành vô minh.