Có một thực tế là trong toàn bộ lịch sử của nhân loại, từ Đông sang Tây, từ cổ chí kim, hình như chẳng có một nữ... triết gia nào! Việc của đàn ông, phụ nữ làm thì nhiều, các nhà khoa học nữ cũng lắm, nhưng hình như trong cái lĩnh vực "vô bổ, vớ vẩn, và tầm phào" này người phụ nữ cương quyết không thèm đụng đến? Tuy vậy, đó lại là cái nơi các ông thường rút về sau mỗi chiến công hoặc thất bại. Nó giúp các ông vững vàng, tự tin hơn khi... ở bàn nhậu và cả khi ngồi một mình giữa rừng.
Nhớ hồi trước 1975, ở miền Nam , nhất là giai đoạn thập kỷ 60, hình như mỗi anh học sinh, sinh viên là một nhà triết học. Lên giảng đường, học gì đi nữa trong nách bao giờ cũng kẹp một cuốn sách "triết lý" nào đó, thường là hiện sinh hay thiền học. Các anh ấy bây giờ có người đã làm ông rồi, nhưng nỗi băn khoăn thân phận của thời đại ấy không hề rời bỏ họ và chắc chắn nó đã giúp họ không ít trên con đường đời nhiều chông gai. Thật kỳ lạ, con người đã tích lũy nhiều thứ của cải cũng như rất nhiều những tri thức trong suốt mấy nghìn năm qua. Của cải nào, tri thức nào thế hệ trước để lại thế hệ sau cứ thế mà xài, chẳng cần kiểm tra lại. Thế nhưng, cái tài sản tư tưởng thì không, nó buộc mỗi cá nhân phải trải nghiệm rồi mới chịu chấp nhận. Tất cả cũng chung quy về cái cách trả lời câu hỏi cũ rích mà Gauguin đã lấy làm tên cho một họa phẩm: Ta là ai? Ta từ đâu đến và ta đi về đâu? Mỗi người tìm cách trả lời mỗi kiểu. Mỗi kiểu trả lời là mỗi quan niệm sống, mỗi thái độ sống quyết định từng hành vi nhỏ nhất.
Lão K. Zung, học trò của lão S. Freud, bảo rằng để thoát cái cảm giác bất an khi đối diện với hư vô, cảm giác lo sợ khi đối diện với cái chết, con người đã ôm vào ba chiếc phao là Niềm tin, Tình yêu và sự Suy tư. Này nhé, không nghĩ đến thì thôi chứ đã nghĩ đến chuyện mình sẽ chết mai đây là đã thấy mọi chuyện không ổn rồi. Mà ngay cả chuyện mình sinh ra cũng vậy. Hôm ấy mà cha không gặp mẹ thì đâu đã có mình. Mà ngay trong cái đêm yêu thương ấy, mình cũng đã phải vượt qua hàng trăm triệu anh chị em khác để giành sự có mặt trên đời. Sự ngẫu nhiên đến mức phi lý về cái thằng tôi đây không nghĩ đến thì thôi, đã lỡ nghĩ đến thì thấy có phải mọi chuyện đều không có nghĩa? Nó phi lý đến mức có hẳn một trường phái triết học về sự phi lý, về sự buồn nôn, về sự phản kháng, và có hẳn cả một trường phái triết học, lý luận để đưa con người đến chỗ tự sát, họ gọi là chết sớm hơn một chút. Thế nhưng, con người bằng bản năng vẫn cứ muốn sống, và nó liền tìm ra ba chiếc phao kể trên để bơi qua cái bể trầm luân này.
Ai có niềm tin thì đi qua cuộc đời một cách thanh thản, cuộc sống như được mua bảo hiểm và cái chết thành sự nhẹ nhàng, bởi họ biết chắc họ sẽ có cuộc sống bất tử bên người họ yêu thương là Đấng toàn năng sau khi nhắm mắt. Người chỉ biết đến tình yêu thì cuộc sống có nhiều dằn vặt khổ đau, nhưng thật ra vô cùng hạnh phúc. Đối với họ, cho dù giữa rừng sâu trong đêm tối hoặc giữa biển khơi trong phong ba, thậm chí cái chết đến kề bên cũng không thể làm họ sợ, miễn là có người mình yêu bên cạnh. Mà không có cũng được, miễn là họ biết chắc rằng trên đời này có người yêu thương họ hết lòng. Nỗi khổ tâm của những người tôn thờ tình yêu chính là ở chỗ làm sao tìm cho ra người yêu mình như mình đã yêu người, nhiều khi ngỡ như tìm ra nhưng qua thời gian lại đau khổ nhận ra mình nhầm. Một số người bất cần người có yêu mình hay không, miễn là có người để yêu là được. Chỉ tội cho các lão hay suy tư, như Tolstoi thì chết ở sân ga, Hemingway thì tự sát bằng một khẩu súng trường, nhiều lão triết gia và nhà thơ khác cũng vậy. Lẽ đời các lão thông tỏ, lòng người ra sao các lão dò thấu, cái chết không làm các lão sợ, thế nhưng sự cô đơn thì không lấy gì lấp cho hết. Triết học bảo đối lập với cô đơn là sự cảm thông. Có hai loại cảm thông là cảm thông cộng đồng và cảm thông vũ trụ. Cảm thông cộng đồng không đủ cho các lão suy tư, trong khi cảm thông vũ trụ thì dường như loài người chưa có đủ phương tiện hoặc phương pháp để nghe hoặc hòa tan trong cỏ cây, vũ trụ. Quyền lực và sự giàu sang không được K. Zung xem là chiếc phao mà xem là hòn đá tảng buộc vào cổ người, bởi nó khiến cho con người ta sống thì bất an, chết thì sợ hãi.
Có điều rất quái là ba chiếc phao này không bao giờ chịu đi chung với nhau thành bè để cứu độ chúng sinh. Anh chàng Niềm tin tuy tôn thờ tình yêu nhưng khi cần cũng sẵn sàng vứt đi để đuổi theo lý tưởng của mình, đối với sự suy tư thì anh chàng chẳng cần biết đến, mọi điều đã có Chúa hoặc vị thần, hoặc lãnh tụ tinh thần nào đó lo hộ cho. Cô nàng Tình yêu thì không bao giờ chịu xem mình là kẻ thứ hai nên khi gặp anh chàng Niềm tin, cô nàng thường ngó lơ, gặp lão Suy tư thì cô nàng dễ bị quyến rũ bởi sự trầm tư, sâu lắng, thế nhưng lâu ngày thì sẽ nhận ra mình đã nhầm. Lão Suy tư thì xem anh chàng Niềm tin là trẻ con, cô nàng Tình yêu là cứu cánh. Thế nhưng, lòng tham của lão vô đáy, tình yêu nào đối với lão cũng không đủ, có Hằng Nga giáng trần hoặc Tây Thi tái thế cũng vậy, lão đam mê đó rồi vứt bỏ đó, lão cứ mãi đi tìm một sự tuyệt đối nào đó mà đến Chúa cũng không làm lão thỏa mãn.
Và vì thế, trải qua mấy ngàn năm suy tư, đã có đủ thánh nhân và tư tưởng, đã có đủ lời khuyên và chân lý, danh ngôn cũng lắm, sự thật cũng nhiều nhưng con người vẫn giống như thuở ban đầu, thuở bước ra từ những cánh rừng mông muội, vẫn dễ giận dữ và sợ hãi, vẫn băn khoăn thân phận, vẫn cô đơn không để đâu cho hết. Phi lý một điều rằng chẳng hiểu tại sao tạo hóa lại cứ thích trút lên đôi vai đàn ông cái gánh nặng ấy.
Câu hỏi tưởng không có lời đáp ấy không ngờ gần đây lại được Robert Winston thử tìm cách trả lời, đồng thời còn vén lên bức màn bí mật của "bản năng con người" qua cuốn sách cùng tên.
Thì ra khi còn sống trong những bầy đàn hú hét, sự giận dữ đã giúp cho mỗi cá thể con người giành được những thắng lợi trước người ngang tài ngang sức. Sự sợ hãi cũng vậy, khi con người còn là vật bị săn đuổi thì sự sợ hãi đã giúp họ phản ứng nhanh hơn trước các mối đe dọa. Đã bao giờ các bạn tự hỏi tại sao ta cứ phải cố nhấn thêm ga khi đèn ngã tư đã sắp chuyển sang đỏ? Tại sao việc xếp hàng bao giờ cũng làm ta thấp thỏm? Robert Winston bảo rằng đó là những dấu vết còn lại của cái thời mà sự di cư với những chuyến đi luôn chứa đầy bất trắc, hiểm nguy.
Vậy chứ cái sự suy tư của đàn ông thì do đâu? Xin thưa, nó cũng giống như ngón trỏ của đàn ông thì luôn ngắn hơn ngón đeo nhẫn, còn đàn bà thì ngược lại! Trong cuộc sống luôn phải đấu tranh để tồn tại và tìm thấy một vị trí trong bầy đàn, con đực bao giờ cũng nhọc nhằn hơn con cái. Ngón trỏ con cái dài là vì để đan và dệt khéo léo, tinh xảo. Ngón trỏ con đực ngắn là để cầm rìu đá chắc khỏe hơn. Trong xã hội hỗn hôn, con cái không cần biết chồng mình sẽ là ai, vì ai chiến thắng sẽ là chồng của cả bầy đàn. Trong khi đó, các con đực thì khốn khổ vì sự cô đơn và đòi hỏi dục tình, nó luôn phải cố vươn lên và chứng tỏ, thậm chí giết cha mình để thống lĩnh cả bầy cái. Và khi con người bắt đầu ý thức về tâm linh thì có đến 20 ngàn năm có lẽ vai trò thống trị bầy đàn là những con đực có được mối quan hệ với thần linh. Những thầy mo, bà đồng trong văn minh Hy Lạp cổ đại là tàn tích của thiết chế xã hội ấy. Cứ con đực nào muốn vươn lên vai trò thủ lĩnh thì đều phải thiết lập được mối quan hệ với thần linh bằng sự suy tư, trầm ngâm, tu hành. Tất cả những điều đó đều còn nguyên đâu đó trong bộ não của mỗi người và điều khiển các hành vi khiến họ nhiều lúc không hiểu tại sao mình lại làm như thế, hành động như thế.
Một cuốn sách thật đáng đọc, tiếc là chưa có người dịch. Tất cả những điều tôi kể ở trên đều nhờ xem tivi trong chương trình của kênh Discovery và bất chợt nhận ra Robert Winston thật có lý khi bảo bản năng con người ta vẫn còn mạnh lắm. Và chợt nhớ đến một câu trong kinh sách nhà Phật: Hãy nhìn vào hầm sâu đen tối vô thủy vô minh! Phải chăng vô thủy vô minh là cái phần đen tối có từ xa xưa trong mỗi con người? Và khi nhìn thấy nó, thiết lập được một đường dẫn truyền thần kinh của ý thức đến cái hầm sâu đen tối ấy thì con người mới thực sự thoát khỏi cái nguồn gốc động vật của mình?
Lại suy tư rồi!
Xem thêm:
Bản Năng Con Người (Human Instinct) - Robert Winston: Click tại đây
Cơ Thể Con Người (The Human Body) - Robert Winston: Click tại đây