Hình như có nhiều đối tượng của
tình yêu. “Tôi yêu cà phê, tôi yêu trà,” một ca khúc thời danh bắt đầu như vậy,
trước khi nói tới tình yêu của các cậu trai dành cho các cô gái. Nhưng phải
chăng không có điều gì khác biệt căn bản giữa tình yêu dành cho thức uống,
thuốc lá, tiền bạc, tiếng tăm, v.v... và tình yêu dành cho một người khác? Có
phải nó nằm ở sự khác nhau giữa tình cảm thuần ích kỷ và tình cảm có phần nhân
ái? Hay nó là vấn đề quan hệ một chiều đối chiếu với quan hệ qua lại? Vậy chính
xác điều được gọi là “tình yêu” là gì?
B.B.
B.B. thân mến,
Descartes lưu ý trong The
Passions of the Soul rằng từ “tình yêu” có thể áp dụng cho “những đam mê của
một người tham vọng đối với vinh quang, của kẻ nghiện rượu đối với rượu, của
người đàn ông đầy thú tính đối với người phụ nữ mà hắn muốn chiếm đoạt, của
người đàn ông đứng đắn đối với người bạn hay tình nhân của ông ta và của người
cha tử tế đối với con cái của ông ta.” Bởi vì Descartes định nghĩa tình yêu như
ý chí tự thắt chặt mình với điều gì hay ai đó, ông ta xem tất cả mọi đam mê như
những hình thức của tình yêu. Tuy nhiên, ông đưa ra một sự phân biệt thiết yếu.
Người tìm kiếm vinh quang, người
keo kiệt, người nghiện rượu và kẻ hiếp dâm, ông nói, chỉ tìm cách chiếm đoạt
đối tượng để riêng mình sử dụng và khoái cảm mà không lưu tâm đến mặt tốt của
đối tượng. Trong loại tình yêu này, ngay cả những con người đầy nhân tính cũng
bị đối xử chỉ đơn thuần như những công cụ sử dụng hay khoái cảm. Người bạn,
người tình và người cha tử tế, trái lại, mong muốn điều tốt cho những người họ
yêu. Trong loại tình yêu này, người yêu thường sẽ hy sinh quyền lợi riêng của
mình vì người yêu dấu.
Tuy nhiên, Descartes phản đối sự
phân biệt truyền thống giữa tình yêu “dâm dục” và tình yêu “nhân ái”, vì ông
nghĩ rằng trong thực tế tâm lý, hai thứ ấy luôn luôn quyện vào nhau. Chúng ta
cảm thấy có thiện cảm với cái gì chúng ta mong ước được hợp nhất và hơn nữa
chúng ta khao khát nó, “nếu chúng ta phán đoán rằng sở hữu nó là điều tốt...
bằng cách nào đó khác hơn thông qua ý chí”. Vậy thì có vẻ như rằng những quan
hệ công cụ đơn thuần không thực sự là tình yêu, ngoại trừ trong một ý nghĩa
hình thức hay trống rỗng nào đó.
Loại tình yêu biểu hiện trong
quan hệ người yêu – nhân tình là tình yêu giới tính hay nhục dục. Nhiều người
coi đó là dạng rõ rệt nhất của tình yêu, còn tất cả dạng khác của tình yêu là
những biểu tượng và sự thăng hoa của nó. Nhiều người khác coi nó chỉ là sự tự
thỏa mãn, và vì thế, không thực sự là tình yêu. Tolstoy, kẻ thù đáng kể của
tình yêu nhục dục trong những năm cuối đời của mình, gọi nó là “cảm giác lầm
lẫn mà con người gọi là tình yêu, và nó không hề giống với tình yêu cũng như
đời sống của con vật không hề giống đời sống của con người.”
Tuy nhiên, nỗ lực giảm trừ tình
yêu giới tính thành sự hài lòng ích kỷ đơn thuần gặp phải một số khó khăn.
Trước hết, chính tình yêu giới tính là yếu tố quan trọng của tình yêu vợ chồng,
mà dựa trên đó gia đình, kiểu mẫu của sự hợp nhất nhân ái, được hình thành. Thứ
hai, ngay cả trên phương diện thể chất và thẩm mỹ, sự chia sẻ cho nhau và lòng
nhân ái là thiết yếu cho hành động thành thân lý tưởng của tình yêu giới tính.
Thứ ba, tách rời mặt thể chất và mặt tinh thần trong một quan hệ con người thân
mật như thế là cực kỳ khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả.
Điều gì đó của sự không thể tách
rời này được gợi lên bằng một từ trong Kinh Thánh chỉ quan hệ giới tính. Từ đó
là “biết rõ”. Có lẽ từ đó ngụ ý rằng trong chuyện này, như trong mọi quan hệ
tình ái đích thực, người ta đi đến chỗ biết rõ nhau trong sự trọn vẹn và đơn
nhất của họ. Và trong khi biết rõ người kia họ cũng có thể đi đến chỗ biết rõ
chính mình. Nhiều người lần đầu tiên nhận thức được yếu tính và giá trị của
chính mình trong khi yêu và được người khác yêu.
Những người hoài nghi và những
bậc uyên thâm gọi sự biết rõ riêng tư trong tình yêu nhục dục như thế là “sự lý
tưởng hóa” hay “sự đánh giá quá cao” đối tượng yêu. Nhưng có lẽ điều người ta
gọi là “lý tưởng hóa” chỉ là sự nhận thức cái gì hiện hữu tiềm tàng trong người
yêu dấu và lần đầu biến thành thực tế trong tình yêu. Điều này cũng có thể đúng
trên bình diện ngoại tại của cái đẹp thể chất. Sự kiện khuôn mặt thô kệch của
người ta yêu tỏ ra xinh đẹp đối với ta là kinh nghiệm thường tình của con
người.
Một dẫn chứng cho sự kiện này
được tìm thấy trong tiểu thuyết A New Life của Bernard Malamud(1), trong đó
nhân vật nam yêu một người phụ nữ hầu như không có vú là điểm mà ngày nay được
coi là thiết yếu cho sự quyến rũ của phụ nữ. Tuy vậy anh ta thấy bộ ngực phẳng
của nàng đẹp và bình thường, vì nó là một thuộc tính của người phụ nữ anh yêu.
(1) Bernard Malamud (1914 –
1986): nhà văn Mỹ, viết tiểu thuyết và truyện ngắn. Nổi tiếng với những truyện
ngụ ngôn về đời sống của người Do Thái. Ông đoạt giải Pulitzer năm 1966 với
tiểu thuyết The Fixer (Kẻ hối lộ).
Nguồn: Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại