Ảo tưởng về bản ngã xuất hiện là
điều tất yếu trong quá trình tiến hóa và phát triển của nhận thức của mỗi chúng
sinh. Khi chúng ta từ con vật tiến hóa tới con người rồi mới tới người. Cái ngã
xuất hiện như một đột phá về nhận thức từ con vật lên tới con người, nhưng sau
đó lại trở thành chướng ngại trong tiến trình từ con người tới người. Nó tự
nhiên được sinh ra, nên sẽ tự nó diệt trong quá trình tiến hóa của mỗi chúng
sinh. Ta không cần làm gì cả ngoài nhận biết nó một cách rõ ràng và minh bạch.
Trong thư trả lời Phật tử Quy
Nguyên. Thầy Viên Minh nêu ra tiến trình sinh-diệt của bản ngã tương đương với
Tứ Diệu Đế như sau:
" Có bốn giai đoạn sinh và
diệt của bản ngã tương ứng với Tứ Diệu Đế như sau:
1- Chúng sinh chìm đắm trong đời
sống bản năng đầy tính hưởng thụ cảm giác, và tất nhiên hậu quả của sự say mê
cảm giác lạc chính là nhận lãnh cảm giác khổ. Nhưng cũng nhờ đối đầu với đau
khổ mà dần dần khôn khéo hơn, bản lĩnh hơn để khẳng định khả năng và cá tính
của mình, phân biệt mình với kẻ khác, mình với những hiện hữu xung quanh. Sự
phân biệt này đưa đến tình trạng tự cô lập mình trong phạm vi giới hạn của kinh
nghiệm cá nhân cục bộ mà hình thành bản ngã. Đây là giai đoạn tương ưng với Khổ
Đế.
2- Khi bản ngã đã được hình thành
thì cái ta bắt đầu phát triển thêm tình cảm ưa và ghét - chọn lấy cái mình ưa
thích, loại bỏ cái mình không ưa thích, từ đó cái ta tham ái được củng cố. Đồng
thời sự phát triển lý trí trong phân biệt đúng sai xấu tốt theo khái niệm, tư
tưởng, quan niệm riêng của mình mà cái ta tà kiến được thành lập. Như vậy cái
ta có hai mặt, mặt lý tính thì tìm cầu sở tri và mặt cảm tính thì góp nhặt sở
đắc để cố gắng bành trướng bản ngã. Ngã mạn, một đặc tính của cái ta luôn so
sánh hơn thua giữa mình và người, là động lực và nỗ lực phát triển bản ngã
thành đại ngã. Giai đoạn này tương ứng với Tập Đế.
3- Trong quá trình bành trướng
bản ngã, cái ta luôn đụng đầu với thử thách của pháp, nên bản ngã mãi lặn hụp
trong thế giới nhị nguyên: được – mất, hơn – thua, thành – bại, vui – khổ hoặc
đúng – sai, thiện – ác, có – không, thường – đoạn… với những nỗ lực của ý chí
mà hậu quả muôn đời chỉ là dòng hoán chuyển không ngừng từ sự thỏa mãn đến bất
mãn và ngược lại trong tự thân nó mà thôi… Cho đến một lúc bản ngã cảm thấy bất
lực và đầu hàng trước Pháp Tánh mênh mông vô hạn, bản ngã mới bắt đầu rút lui
dần và và tự buông bỏ chính mình để nhường lại cho sự vận hành hoàn hảo trong
nguyên lý tự nhiên của pháp. Giai đoạn này tương ứng với Đạo đế, sự tu tập ở
đây không còn là phát triển bản ngã như giai đoạn 2 mà là xả ly cái ta tà kiến
và tham ái bằng cách điều chỉnh nhận thức và hành vi cho tùy duyên thuận pháp
(Bát Chánh Đạo).
4- Khi đã biết sống tùy duyên
thuận pháp trong Bát Chánh Đạo với hành động, nói năng, suy nghĩ sáng suốt,
định tĩnh, trong lành thì bản ngã phiền não tham sân si được đoạn tận. Một đời
sống hoàn toàn vô ngã vị tha được thể hiện một cách tự nhiên trong “không, vô
tướng, vô tác, vô cầu”, đúng như hướng “xả ly, ly tham, đoạn diệt, an tịnh,
chánh trí, giác ngộ, Niết-bàn” mà đức Phật đã khai thị. Giai đoạn này tương ứng
với Diệt Đế, tức là hoàn toàn giác ngộ, giải thoát Niết-bàn.
Sở dĩ thầy giới thiệu với con bốn
giai đoạn tu tập tương ứng với Tứ Diệu Đế này để con thấy pháp hành mà con đang
thể nghiệm có hiệu quả vì con đã và đang đi đúng con đường của các Bậc Giác
Ngộ. Đừng sợ bản ngã vì bản ngã cũng là những giai đoạn đương nhiên phải trải
qua trên hành trình giác ngộ giải thoát. Chúc con luôn sáng suốt, định tĩnh,
trong lành."