Từ thời thơ ấu, chúng ta đã biết
thiện ác, tốt xấu là gì. Ăn cơm vung vãi đầy bàn là xấu, dơ dáy không tắm rửa
là xấu, viết chữ cẩu thả là xấu, ăn nói thô tục chửi thề là xấu… Và ngược lại
là tốt.
Trong các chuyện cổ tích, luôn
luôn chúng ta muốn một kết thúc có hậu: kẻ ác phải thua, người tốt phải thắng,
công chúa thì không thể lấy một kẻ gian thần bạc ác, mà phải lấy một hoàng tử
anh hùng trung chánh, “cứu vật vật trả ơn” chứ không phải cứu vật vật trả oán,
Bụt thì giúp cô Tấm chứ không giúp cô Cám… Tất cả chuyện cổ tích trên thế giới
đều như thế: Cái thiện phải thắng cái ác.
Trong trí óc ngây thơ hồn nhiên,
chúng ta vẫn mong đợi một sự công bình trong trận chiến giữa thiện và ác, và
nếu có những giọt nước mắt tuổi thơ thì chúng ta khóc cho người thiện bị chà
đạp, bị đọa đày, chứ không khóc cho người ác. Chúng ta luôn luôn có khuynh
hướng yêu thích cái thiện.
Và cũng từ thưở nhỏ, chúng ta
biết đem lại sự bằng lòng, niềm vui cho cha mẹ, không muốn cho cha mẹ buồn.
Chúng ta biết thế nào là niềm vui, một chút hạnh phúc khi cứu một con vật bị
nạn, khi cho bạn một viên kẹo, cho bạn chơi chung một món đồ chơi, biết yêu
thích những đức tính tốt đẹp của cha mẹ, thầy cô, anh em, bạn bè.
Biết thiện ác, biết thích cái
thiện, ghét cái ác như một bản năng trong mỗi người chúng ta. Càng lớn lên, với
giáo dục, với văn hóa, sự phân biệt thiện ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa càng rõ
ràng và tạo nên sự phán đoán giá trị của con người. Người bình thường chúng ta
không ai khen Hitler về những trại tập trung và lò hơi ngạt, không ai khen Pôn
Pốt về việc giết hàng triệu người Campuchia. Và chúng ta đều khen ngợi trí
thông minh, lòng nhân ái của Einstein, sự kiên cường vì tự do cho nhân dân mình
của Nelson Mandela… Tóm lại, chúng ta không thể nào ca ngợi những tính xấu của
con người, và chính những đức tính tốt đẹp của một số người đã đưa họ lên hàng
những vĩ nhân.
Không nghi ngờ gì, con người được
phân biệt với các loài khác vì sự biết phân biệt thiện ác, tốt xấu, biết việc
gì nên làm và không nên làm. Cuộc đời làm người chính là sự loại bỏ cái xấu,
cái ác và trồng thêm, làm tăng trưởng những đức tính tốt, thiện. Hai câu kết
của chuyện Kiều:
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài.
Cuộc đời người, sự tiến hóa của
con người là cái tâm phải đầy dẫy những thiện căn. Với Phật giáo, biết phân
biệt thiện ác không chỉ là một đặc trưng xác nhận tính chất con người, mà hơn
nữa, nó là điều kiện tất yếu để một chúng sinh có thể tái sinh làm người.
Lịch sử loài người, lịch sử của
từng con người, là cuộc tranh đấu đầy gian khổ, có khi đau đớn, để cái thiện
cái tốt chiến thắng cái ác cái xấu, cái chân cái đúng chiến thắng cái giả cái
sai, cái đẹp chiến thắng cái xấu. Thế nên trên đỉnh cao nhân loại, những con
người đã hoàn thành phần nào cuộc chiến thắng ấy luôn luôn được tôn vinh. Thế
nên Đức Phật có danh hiệu là Người Chinh Phục, Người Chiến Thắng (The
Conqueror, The Victorious One).
Con người là loài có ưu thế vì
bằng ý thức của mình biết hướng đến Chân Thiện Mỹ và là loài có khả năng đạt
đến Chân Thiện Mỹ. Lịch sử loài người, sự tiến hóa của con người không gì khác
hơn là hướng tới Chân Thiện Mỹ trong mọi mặt của cuộc sống, thoát khỏi những
xiềng xích của cái đối nghịch với Chân Thiện Mỹ vẫn cầm tù mình, và cuối cùng
đạt đến Chân Thiện Mỹ hoàn toàn.
Không có một ngành học thuật,
nghiên cứu nào, một hoạt động nào của con người mà không hướng đến ít nhất một
trong ba cái đó. Không có người nào mong muốn mình và xã hội càng ngày càng xấu
ác hơn, càng ngày càng giả dối sai lầm hơn, càng ngày càng xấu xí hơn. Chính vì
hướng đến Chân Thiện Mỹ, thực hiện Chân Thiện Mỹ mà loài người có văn hóa và
văn minh. Và càng hướng đến và thực hiện Chân Thiện Mỹ thì con người càng trở
nên có văn hóa và văn minh.
Cái thiện bao trùm toàn bộ cuộc
sống con người, có mặt ở mọi ngóc ngách của đời sống. Ở đây chúng ta chỉ nói về
sự cho. Cho là một điều thiện và cái đối nghịch với nó, trộm cướp là cái xấu,
cái ác. Thế nên việc cho được gọi là việc từ thiện.
Ngay từ nhỏ chúng ta biết đến
niềm vui của sự thiện, của lòng tốt, của sự cho. Mới sinh ra được vài tháng,
người nào đến với ta bằng thiện cảm, vuốt má ta, cười với ta, chúng ta cười lại
dù chưa biết nói, chưa biết nghe. Ở tiểu học, nghe lời cha mẹ cầm một lon gạo
đưa cho người đi xin, cứu con chim bị thương, thả một con bướm bị nhốt trong
phòng cứ đâm đầu vào ngọn đèn, cho con mèo ăn… chúng ta thấy vui. (Tiếc thay
khi lớn lên, trong một xã hội tranh giành, ít người còn nhớ thời thơ ấu chúng
ta đã từng là một Bồ-tát nhỏ như thế nào).
Làm một việc thiện nhỏ, chúng ta
thấy vui. Có ai tự ý làm một việc thiện mà thấy khổ chưa? Thế thì nếu thiện căn
phát triển nơi con người chúng ta, nơi thân khẩu ý chúng ta, hẳn là có hạnh
phúc. Và đương nhiên, nếu thiện căn, sự thiện, lòng tốt hoàn toàn đầy dẫy, tràn
ngập thân tâm chúng ta, hẳn là hạnh phúc càng bao la sâu thẳm.
Chúng ta có thể định nghĩa thiện
là làm tốt, làm lành cho mình và cho người khác vật khác và ác là làm xấu, làm
hại cho mình và cho người khác vật khác. Thiện là khuynh hướng tự nhiên của con
người, là bản năng của con người. (Chữ căn trong thiện căn có thể dịch thành
bản năng, một chữ thông dụng của phương Tây).
Sống theo bản năng thiện ấy,
chúng ta cảm nhận niềm vui, hạnh phúc. Nhưng chúng ta vẫn thấy có sự lúng túng,
khó khăn: cho mà đôi khi tiếc, đôi khi đau khổ. Làm việc thiện mà đôi khi dằn
vặt, khổ nhọc. Nói lời êm dịu làm vui lòng người thì khó hơn là chỉ trích, gây
thương tổn cho họ.
Cái gì ngăn cản chúng ta làm điều
thiện? Cái gì ngăn cản ta cảm nhận niềm vui và hạnh phúc? Đó là ‘cái ta’ và đi
liền theo nó là ‘cái của ta’. Tất cả mọi cái ác suy cho cùng đều bắt nguồn từ
cái ta và cái của ta. Tất cả mọi tội ác trộm cướp, tham nhũng, hại người, làm
và bán đồ giả, chế biến thực phẩm có hại cho sức khỏe, gây tai nạn giao thông…
tất cả và tất cả đều đến từ cái ta và những lực lượng hùng hậu của nó là tham,
sân, si, kiêu mạn, đố kỵ… Hóa ra cái ác chính là cái ta, một cái ta tự hiểu sai
mình, tách lìa với mọi sự và đứng lên trên mọi sự. Đã thế, còn được trang bị bằng
rất nhiều cái xấu ác.
Ở một mức độ cao hơn của nhận
thức, chúng ta thấy cái ta là nguyên nhân của mọi cái ác. Suốt ngày tất cả ý
đều xoay quanh cái ta, tất cả khẩu (lời nói) đều lấy cái ta làm điểm quy chiếu
duy nhất, tất cả hoạt động của thân đều vì cái ta. Đời sống rốt lại chỉ là sự
quanh quẩn trong một vòng vây của cái ta, ngoài ta ra không có gì hết. Cái ta
làm chúng ta cô lập với thế giới, với người khác, với toàn bộ đời sống.
Thấy một cái gì, nghe một cái gì,
nghĩ một điều gì… cái ta tức khắc nhảy vào, gom mọi sự về nó, cho chỉ mình nó
thôi. Con người bình thường chúng ta bị nhốt vào, bị giam cầm trong sự thống
trị tuyệt đối của cái ta rất nhỏ hẹp nhưng nó tự cho nó là tất cả vũ trụ. Người
khác và thế giới không còn hiện hữu; nếu hiện hữu là hiện hữu qua sự nhuộm màu
của cái ta.
Bị giam cầm, ở tù chung thân
trong cái ta ấy, chúng ta có khổ đau, mà cô đơn là một thành phần. Đó là tình
cảnh con người, qua những nhân vật vô danh của Kafka, qua Roquentin trong Buồn
Nôn (La Nausée) của J.P. Sartre, qua Meursault trong Người Xa Lạ (L’Etranger)
của Albert Camus, và qua những nhân vật phân mảnh của văn học hậu hiện đại.
Cái ta của chúng ta chỉ là một
phần của cuộc sống chúng ta, một phương tiện của đời sống thực sự bao la của
chúng ta. Chẳng có ai cho rằng một móng tay mình là tất cả vũ trụ, rồi cả đời
ôm ấp hôn hít nó, thậm chí vì nó mà làm điều ác, họa chăng chỉ có trẻ nít hoặc
người điên. Người trưởng thành về tinh thần, về tâm linh thì không làm thế. Họ
vẫn có cái ta, sử dụng cái ta như một phần cuộc sống của họ ở đời, nhưng cái ta
đó chỉ là một hạt cát trong số cát sông Hằng là tất cả chúng sanh không thể đếm
hết mà thôi.
Ở một mức độ cao hơn của nhận
thức con người, nếu hoàn toàn chấp vào cái ta thì cái ta đó là kẻ thủ ác. Và
ngược lại, cái thiện là sự nới lỏng, sự giải phóng khỏi cái ta. Cái thiện là sự
thoát khỏi xiềng xích của cái ta và đặt cái ta vào đúng vị trí của nó: một bọt
biển trong đại dương chứ chẳng phải là tất cả đại dương. Và như đã nói ở trên,
cái thiện là hạnh phúc thì không cái thiện nào bằng, không hạnh phúc nào bằng
sự giải phóng khỏi cái ta: như Tôn Ngộ Không bay vọt lên trời cao tự do khi đã
thoát khỏi sự đè nặng của năm quả núi ngũ uẩn chịu đựng từ bao kiếp đến nay.
Từ đó chúng ta có cái thiện thật
sự và hạnh phúc thật sự. Dĩ nhiên, không ai không có hạnh phúc mà có thể cho
người khác hạnh phúc.
Phật giáo là con đường của sự
thiện, từ những sự thiện có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu đến sự thiện tối hậu.
Đó là con đường của sự thiện, nghĩa là con đường của hạnh phúc. Hạnh phúc vừa
tự thân đồng thời hạnh phúc cho người khác. Hạnh phúc của Phật giáo không phải
là một hạnh phúc tĩnh tại, không hành động. Nhưng làm sao có thể vừa hành động
vừa giải thoát? Hành động là karma, là nghiệp. Dù là hành động tốt, nghiệp tốt,
vẫn là sự trói buộc.
Làm thế nào để hành động, nghĩa
là tạo ra nghiệp, mà vẫn giải thoát khỏi ‘cái ta đang hành động tốt’, vẫn tự do
và hạnh phúc? Làm thế nào để có được sự đồng thời hạnh phúc của chính mình và
của người khác? Chẳng phải cái gì chúng ta cho đi thì cái ấy mất mát nơi chúng
ta sao? Có thể nào có thứ hạnh phúc mà càng cho đi thì càng có nhiều thêm?
Nhưng với Phật giáo, hạnh phúc thật sự thì phải như vậy. Như thế mới nói đến
chuyện lợi mình lợi người và đồng thời hạnh phúc cho cả hai bên.
Vấn đề này là một trong nhiều chủ
đề của Kinh Kim Cương. Ở đây chúng ta chỉ trích ra một đoạn để học tập, để sống
theo:
“Bồ-tát hãy không có chỗ trụ mà
cho. Nghĩa là chẳng trụ sắc mà cho, chẳng trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp mà
cho. Này Tu Bồ Đề! Bồ-tát nên cho như thế, chẳng trụ nơi tướng. Nếu Bồ-tát
không trụ vào tướng mà cho, thì phước đức ấy (hạnh phúc ấy) là không thể suy
nghĩ, không thể đo lường”.
Tác giả: Nguyễn
Thế Đăng