Trong vô lượng pháp môn tu theo
đạo Phật, bố thí là hạnh tu chủ yếu mà mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát dạy
chúng ta thực hành, để đem lại ích lợi, đem lại an lạc cho tất cả chúng sanh,
ngay trên thế giới ta bà này. Bố thí là hạnh tu hàng đầu trong "Lục Ðộ Ba
La Mật", gồm có: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí
tuệ. Bố thí cũng là hạnh tu hàng đầu trong "Tứ Nhiếp Pháp", gồm có:
bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự. Người theo đạo Phật cần nên biết nhiều về
hạnh bố thí, để thực hành đúng theo Chánh Pháp, để thực hành một cách liên tục,
một cách hoan hỷ, để được phước báu vô lượng vô biên, để đem an lạc và hạnh
phúc cho mình và cho mọi người.
* * *
Trước hết, bố thí có nghĩa là cho
một cách rộng rãi. Cho một cách rộng rãi có hai nghĩa: một là, cho tất cả mọi
thứ, đến tất cả mọi người; và hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi, không
kỳ thị, gọi là "bất tùy phân biệt". Chúng ta sống trên thế gian này
gặp nhiều phiền não và khổ đau, từ nhiều nguyên do, trong đó lòng tham lam là
yếu tố hàng đầu. Do lòng tham lam, ích kỷ, con người không bao giờ thấy đủ,
luôn luôn nghĩ đến bản thân mình. Có được chín đồng con người cố gắng kiếm thêm
cho đủ mười đồng, để dành khi hữu sự cần đến, hay để dưỡng lão mai sau. Ðến khi
đã được chín trăm ngàn rồi, con người vẫn cố làm việc, cố dành dụm, cố đấu
tranh, cố giành giựt, bất chấp thủ đoạn, để có nhiều thêm nữa, để thành triệu
phú, dù rằng lúc đó tuổi tác đã già nua, gần đất xa trời, vẫn không thức tỉnh.
Ðó là lòng tham lam tiền tài, của cải.
Lòng tham danh, háo danh cũng
thúc đẩy, sai khiến nhiều ông bà già tiếp tục bon chen trên đường đời, tiếp tục
giở những thủ đoạn bất chánh bất lương, những tuyệt chiêu điêu luyện, những
kinh nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ được, giữ cho thực lâu, các chức vụ hay
danh vị nào đó, trong các tổ chức bất vụ lợi trá hình, đôi khi đó chỉ là các
chức dỏm, danh hàm, danh hão mà thôi, chẳng có chút giá trị nào cả. Lòng tham
lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh, giành giựt, bất chấp thủ đoạn, thì
làm sao cuộc sống thực sự được an lạc và hạnh phúc? Người hiểu hai chữ
"tri túc" là người biết an phận với những gì đang có, biết cần kiệm,
biết sống một cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch, thanh bạch, chính là
người được an lạc và hạnh phúc lớn nhất trên đời. Nếu chúng ta không có những
gì mình thích thì chúng ta hãy thích những gì mình đang có. Ðược như vậy, cuộc
đời đâu còn gì gọi là khổ đau.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có
dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là
đủ, tuy nằm trên đất cũng thấy an vui hạnh phúc. Người không biết thế nào là
đủ, tuy thân xác ở trên cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn!
Sách cũng có câu:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là nếu biết thế nào là đủ
thì tức thời thấy đủ, biết thế nào là nhàn thì tức thời thấy nhàn. Như vậy đầy
đủ và an nhàn thực ra rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc đời, nhưng chúng
ta không bao giờ đạt được đầy đủ và an nhàn, nếu không chịu "biết đủ, biết
nhàn". Bởi vậy, cho nên đức Phật dạy pháp bố thí, để dẹp bớt, để dứt trừ
lòng tham lam, ích kỷ, đòi hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện của con người. Hạnh
bố thí gồm có ba thứ: tài thí, pháp thí và vô úy thí.
1. Tài thí:
Về tài thí có hai phần: nội tài
thí và ngoại tài thí. Chúng ta có thể cho những gì bên ngoài thân thể, như là
tiền bạc, của cải, cơm gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là
"ngoại tài thí". Khi thực hành ngoại tài thí, chúng ta cần chú ý các
yếu tố đúng người, đúng thời và đúng lượng. Chẳng hạn, người nào cần tiền bạc,
chúng ta giúp tiền bạc, người nào cần thuốc men, chúng ta giúp thuốc men và chỉ
giúp lúc cần thiết, với số lượng hợp tình, hợp lý mà thôi. Nhiều khi giúp đỡ
tiền bạc quá nhiều, có thể làm cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng lười
biếng, không thích làm việc, không chịu cực khổ, không kham nổi những khó khăn
trong cuộc sống, chỉ biết nằm chờ viện trợ từ kẻ khác mà thôi. Nhiều khi giúp
đỡ tiền bạc có thể đưa đến chuyện hại người, nếu chúng ta không biết người nhận
sẽ xử dụng số tiền đó với mục đích sai lạc, mục đích xấu.
Chúng ta có thể đem cho những gì
thuộc về thân thể, thân mạng của mình, các bộ phận trên cơ thể như là mắt, tim,
gan, phèo, phổi, gọi là "nội tài thí". Ðiều này khó thực hiện được
khi còn sống, nhưng chúng ta có thể làm được khi vừa mới tắt thở. Có rất nhiều
người dù không theo đạo Phật, không hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ đã ký sẵn
giấy cam đoan cho các bộ phận trên cơ thể, hoặc cho luôn thân xác của họ, cho
bất cứ ai cần đến, hoặc cho các viện nghiên cứu, để giải phẩu, học hỏi, tìm
hiểu, ngay khi họ vừa mới tắt thở. Ðiều này giúp chúng ta hiểu rằng, trong tận
cùng thâm tâm của mỗi con người, "thiện tâm" đều giống nhau, ai ai
cũng có, không phân biệt con người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này.
Ngày nay, chúng ta ít người thực
hành nổi hạnh bố thí thân mạng như người xưa, nhưng chúng ta có thể dùng thân
mạng để làm những việc ích lợi cho người, như công quả trong chùa, góp công sức
trong các cuộc lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão lụt, gặp hỏa hoạn, làm việc
thiện nguyện giúp người khó khăn, khốn khổ. Thực ra, từ xưa đến nay, trên thế
gian này, có biết bao nhiêu người sẵn lòng xả thân cứu người, nhiều khi gặp
hiểm nguy đến tánh mạng. Ðó cũng gọi là nội tài thí.
2. Pháp thí:
Về pháp thí có hai nghĩa: một là,
đem cho tất cả mọi việc, đem cho tất cả các pháp trên thế gian này, và hai là,
đem cho giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp. Chúng ta có thể cho tất cả
những gì không thuộc phần nội tài thí và ngoại tài thí nói trên. Chẳng hạn như
chúng ta có sở học, có kiến thức, có sự hiểu biết về một vấn đề nào đó, về một
phương diện nào đó, về một ngành nghề nào đó, chúng ta có thể đem ra chỉ bảo,
hướng dẫn, truyền dạy, giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong cầu
báo đáp, không kể lể ơn nghĩa. Việc này bất cứ ai cũng có thể làm được, không
tốn đồng xu cắc bạc, chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ cần tấm lòng thực sự "vì
người quên mình" mà thôi.
Ðối với hàng tu sĩ xuất gia, hay
cư sĩ tại gia, có học hiểu và thực hành giáo pháp của Phật, đem ra giảng giải
cho mọi người được biết để áp dụng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc
hiện đời, giúp mọi người hiểu được chân lý, để giảm bớt phiền não và khổ đau.
Theo nghĩa này, pháp thí là điều quan trọng hơn cả. Tại sao vậy? Bởi vì, khi
chúng ta giúp người về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho người
được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian nào đó mà thôi. Khi
chúng ta giúp người về tinh thần, như dạy chữ, dạy nghề, hướng dẫn cách sống
đúng phép vệ sinh chẳng hạn, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn, trong
một thời gian nào đó, thậm chí có thể giúp họ sống vui, sống khỏe trọn một đời
này mà thôi.
Còn nếu chúng ta có học hiểu và
thực hành giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp, đem ra giảng giải cho mọi
người được biết, để áp dụng trong cuộc sống, chẳng những có thể giúp con người
sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, ngay kiếp này, cao hơn nữa là giúp con
người được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau, vĩnh viễn
muôn kiếp. Bởi vậy cho nên, Ðức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia "pháp cúng
dường" chư Tăng Ni, để các vị xuất gia không phải lo chuyện sinh sống, yên
tâm tu hành thanh tịnh, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra giảng giải
cho mọi người được biết, được hiểu một cách rõ ràng, để áp dụng tu hành theo
đúng Chánh Pháp. Pháp cúng dường như vậy là thanh tịnh nhất, dành cho các bậc
chân tu thanh tịnh. Ðó là một dạng khác của sự bố thí.
Tuy nhiên, không phải giáo pháp
luôn luôn cần hơn cơm gạo, hoặc ngược lại, không phải cơm gạo luôn luôn là ưu
tiên hàng đầu trong cuộc sống. Trong kinh sách, gọi đó là "tùy
duyên", nghĩa là tùy theo trường hợp, tùy theo hoàn cảnh, tùy theo con
người. Trong một buổi Ðức Phật thuyết pháp, có một người nghèo khó đến dự. Ðức
Phật liền bảo dọn cơm cho người đó ăn, xong rồi mới giảng pháp cho nghe sau.
Khi nghe xong thời pháp đó, người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả tu đà hoàn,
phát tâm qui y Tam Bảo. Do đó, ngày nay chúng ta có câu "có thực mới vực
được đạo", nghĩa là phải được tạm no lòng, mới hy vọng hiểu được đạo lý
cao siêu. Chúng ta không thể đem giáo pháp cao siêu ra giảng dạy cho những
người đang đói khổ, đang cần cơm gạo trước hết. Cũng như không thể đem giáo
pháp tối thượng dạy ngay cho người sơ cơ, mới học đạo. Nhu cầu tại thế gian của
con người đi từ vật chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến chuyện tâm linh
xuất thế gian.
3. Vô úy thí:
Về vô úy thí thì có nhiều nghĩa
rộng rãi, cao siêu hơn. Vô là không, úy là sợ, thí là cho. Vô úy thí là đem cho
sự không sợ hãi. Hay nói cách khác, vô úy thí là làm sao giúp đỡ cho con người
bớt sự lo âu, giảm thiểu phiền muộn, hay không còn sợ hãi. Con người sống trên
thế gian này có rất nhiều điều lo lắng, âu sầu, phiền muộn, hay sợ hãi. Nào là
sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ bệnh hoạn, sợ thiên tai, sợ mất
công ăn việc làm, sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ đủ-mọi-thứ-chuyện trên trần
đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của con người chính là sợ chết! Tự cổ chí kim, từ
người nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người bình dân cho đến người học
thức, từ người trẻ cho đến cụ già, từ người thường dân cho đến vua quan hay
hàng quí tộc, từ giới phàm phu tục tử cho đến các bậc hiền triết thánh nhơn,
nào có ai tránh được cái chết đâu, mặc dù con người vốn tham sinh úy tử, ham
sống sợ chết!
Con người thường hay nghĩ "đời
còn dài", cho nên chỉ bận tâm đến chuyện mưu sinh, chuyện tranh danh đoạt
lợi, chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện hơn thua thị phi, đúng sai phải quấy,
đủ thứ chuyện linh tinh lang tang. Ðến khi sắp từ giã cuộc đời, mới giựt mình
tỉnh giấc, thì đã quá muộn màng! Thực ra, con người có thể chết bất cứ lúc nào,
bất cứ cách nào, bất cứ nơi nào. Vô úy thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ
hãi mọi thứ, bớt sự lo lắng mọi điều, trong tâm trí, qua các biến cố, trước các
điều hiểm nguy, và còn có nghĩa là: chúng ta không nên gây não phiền, không nên
gây bực dọc cho bất cứ ai, để yên cho mọi người được sống cuộc đời an vui, yên
ổn, dù cho họ là người thân hay kẻ thù. Ðó chính là tâm lượng "bất tùy
phân biệt".
Còn đối với sự sợ chết, chúng ta
khuyến hóa mọi người tu hành, cầu đạo giải thoát. Bởi vì chỉ có giáo pháp của
Ðức Phật mới có thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận "pháp vô
sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành để giải thoát khỏi mọi thứ phiền
não và khổ đau, không còn sanh tử luân hồi nữa. Ðạo Phật không phải chỉ có hình
thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi. Thực hành hạnh vô úy thí còn có
nghĩa là giúp chúng sinh khắc phục tư tưởng khiếp nhược, sợ hãi, tự ti mặc cảm
yếu hèn, giúp chúng sinh hiểu được điều Ðức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và
giảng dạy trong tam tạng kinh điển. Ðiều đó chính là: Tất cả chúng sanh ai ai
cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất cả đều bình đẳng, và tất cả chúng sanh đều
sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ đau phiền não, nếu biết tu tập thực hành đúng
Chánh Pháp.
Trong các kinh điển Phật giáo, đó
là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập. Nghĩa là Ðức Phật khai mở cánh cửa giải
thoát, chỉ thị cho con người thấy được, hiểu được thế nào là pháp vô sanh. Sau
đó, giúp cho con người làm sao giác ngộ được pháp vô sanh và chỉ rõ đường lối
tu hành làm sao chứng nhập được pháp vô sanh. Ðó chính là "con người chân
thật bất sanh diệt" của tất cả chúng ta, chứ chúng ta không phải là cái
xác thân giả tạm đang có này. Chúng ta cần nên biết rằng: Con người sở dĩ sợ
chết, bởi vì con người sợ mất cái thân tứ đại mấy chục ký lô giả tạm này, cứ
tưởng đó là mình, mà không hề biết mình có cái không hề chết, không hề bị diệt
mất, cái đó chính là "con người chân thật bất sanh diệt" của tất cả
chúng ta vậy.
Chúng ta biết rằng khi thọ hưởng
một tài sản hay của cải, vật chất nào, không nên chỉ dùng cho riêng mình. Chúng
ta nên bố thí ra, chia xẻ với mọi người, để tạo an vui cho những người chung
quanh và cũng tạo an vui cho chính chúng ta nữa. Cái gì chúng ta ăn, chỉ được
nhứt thời. Cái gì chúng ta tích trữ, dành dụm, chỉ được nhứt đời mà thôi, chắc
chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi. Nhưng tất cả những gì chúng ta cho
ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng ta, dưới dạng phước báo, quả
báo lành, sự bình an, sự may mắn, giúp chúng ta được tai qua nạn khỏi. Chứ thực
sự không có chúa trời, không có ngọc hoàng thượng đế hay đức Phật nào, vì lòng
riêng tư, mà đến cứu giúp, theo lời van xin cầu khẩn của chúng ta cả. Nói cách
khác, cái gì chúng ta đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa. Cái gì chúng ta đã
mua sắm, bây giờ phải để lại cho người khác, khi ra đi. Chỉ có cái gì chúng ta
"đã cho, đã bố thí" với lòng từ bi, là vẫn còn "thuộc về chúng
ta" khi từ giã cõi đời. Ðó chính là nghiệp lành, là phước báo, là quả báo
tốt, là sự may mắn, luôn luôn theo cùng với chúng ta như hình với bóng. Danh
ngôn Tây Phương cũng có câu: "If you continually give, you will
continually have".
Trong Kinh Ðịa Tạng, phẩm thứ
mười, khi Bồ Tát Ðịa Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật
rằng: "Bạch Ðức Thế Tôn, con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh công
đức bố thí, hiệu quả có sự nhiều ít khác nhau, có người được hưởng phước một
đời, có người được hưởng phước mười đời, có người được hưởng phước hàng trăm,
ngàn đời, lợi lạc lớn lao. Tại sao như thế, cúi xin đức Thế Tôn từ bi giảng
trạch cho chúng con được biết". Ðức Phật dạy tóm lược như sau: "Bất
cứ ai gặp những người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm ngọng, đui mù,
ngây điếc, không được toàn vẹn, mà tự tay đem bố thí với lòng từ bi, thương
xót, dùng lời mềm mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho họ được an ổn, vui vẻ, thì
được hưởng phước báo vô lượng. Tuy nhiên, nếu làm được những việc thiện như thế
mà đem hồi hướng cho pháp giới chúng sanh thì những người làm công đức ấy được
hưởng những sự vui sướng nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời, nếu đem công đức ấy hồi
hướng cho quyến thuộc nhà mình, hay muốn tự mình hưởng những lợi ích, thì ba
đời được vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn phần".
Tại sao vậy? Bởi vì những người
làm phước đó đã phát tâm rộng lớn đem "hồi hướng cho khắp pháp giới chúng
sanh", không cứ công đức ít nhiều, không dành riêng cho mình và người thân
của mình, đó chính là những người đã "diệt được lòng tham", cho nên
được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng quả "phước
báo lớn lao" như vậy. Còn những người chỉ phát tâm hạn hẹp, chỉ muốn đem
công đức ấy hồi hướng cho người thân, hay cho chính mình mà thôi, họ sẽ được
hưởng quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo tâm lượng còn nhỏ hẹp của chính mình.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có
dạy: "Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc
bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí,
bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư
lượng". Nghĩa là nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh,
thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành
hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
Không chấp bốn tướng: ngã, nhơn,
chúng sanh, thọ giả, có nghĩa là khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không nên
thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp, được cám ơn, được tán
thán, chúng ta không nên thấy có người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể
chuyện ơn nghĩa, chúng ta không nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố thí
đó, để khoe khoang, và chúng ta cũng không nên thấy có vật gì, điều gì đã được
đem cho, để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, muốn đi đòi lại! Nếu được
như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta sẽ an trụ được tâm của chúng
ta. Chúng ta sẽ không bực dọc khi gặp những người bội bạc, không biết ơn, thậm
chí còn trở mặt với chúng ta nữa. Lòng từ bi của chúng ta cũng không bị hạn
chế, khi không còn nhớ là đã bố thí bao nhiêu tiền của, đã bố thí cho bao nhiêu
người, đã dành bao nhiêu thời giờ để làm hạnh bố thí đó.
Muốn hàng phục được tâm ý của
chính mình, chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng sanh mà không thấy có chúng
sanh nào được độ. Bố thí xong rồi thì thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa. Khi chúng ta
xả bỏ được hết tất cả vọng niệm, tức là chúng ta đã thực hành hạnh bố thí ở mức
độ cao nhất, mà ít người hiểu được. Hàng phục được tâm ý của chính mình thì mau
tiến đến chỗ giải thoát, cho nên Ðức Phật dạy phước đức không thể nghĩ, không
thể lường được, chính là nghĩa đó vậy.
Không chấp sáu trần: sắc, thinh,
hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, có nghĩa là chúng ta không chấp
vào sắc tướng dễ nhìn hay khó nhìn, không chấp vào âm thinh dễ nghe hay khó
nghe, không chấp vào mùi hương dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi vị dễ
nếm hay khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu, không chấp vào
sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý, thích hay không thích, ưa hay ghét. Sở
dĩ tâm ý của chúng ta thường hay loạn động, bởi vì chúng ta thường hay dính mắc
với sáu trần. Hễ mắt thấy bất cứ sắc gì thì liền khởi vọng niệm phê phán đẹp
hay xấu, hễ tai nghe bất cứ tiếng gì thì liền khởi vọng niệm phê phán êm dịu
hay chát chúa, hễ mũi ngửi bất cứ mùi gì thì liền khởi vọng niệm phê phán thơm
quá hay thúi quá, hễ lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền khởi vọng niệm phê phán
ngon quá hay dỡ quá, hễ thân xúc chạm bất cứ vật gì thì liền khởi vọng niệm phê
phán mát mẽ mịn màng hay nhám nhúa nhơ nhớp, hễ ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì
liền khởi vọng niệm phê phán hài lòng hay bực bội. Cứ như thế, cả ngày, suốt
tháng, quanh năm, tâm của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động.
Chúng ta thực hành hạnh bố thí
còn có nghĩa là chúng ta buông xả hết các vọng niệm, các tạp niệm, để an trụ tâm,
để thanh tịnh tâm thì mau tiến đến chỗ giải thoát. Cho nên Ðức Phật dạy thực
hành được hạnh bố thí như vậy, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường
được. Chúng ta thực hành hạnh bố thí với tấm lòng rộng rãi, với tất cả tấm lòng
"vì người quên mình", với tất cả tấm lòng từ bi, cung kính, không cầu
danh lợi, không cầu báo đáp, không vì hơn thua, không mê hoặc lòng người, không
chọn lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại, tức là không trụ sắc; cho rồi không
cần nghe lời khen, tiếng cám ơn, tức là không trụ thinh, v.v.. và của đem bố
thí phải thanh tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn trọng, bình
đẳng, phải được cám ơn! Ðó chính là sự bố thí thanh tịnh, trong sáng, "bất
tùy phân biệt" nam phụ lão ấu, người tu hay người đời, đẳng thí vô sai biệt,
phổ đồng cúng dường, thượng cúng thập phương chư Phật, chư hiền thánh nhơn, hạ
cập lục đạo phẩm, cho nên đem lại phước báo vô lượng vô biên, cho nên trong
kinh sách gọi là "bố thí ba la mật".
Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố
thí? Chúng ta tu hạnh bố thí là kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập
nghiệp lành. Bố thí tiêu trừ đau khổ, làm cho tâm trí được an vui, thảnh thơi,
hạnh phúc. Tu hạnh bố thí được người thương mến, dễ thu phục lòng người, phát
triển lòng từ bi. Tu hạnh bố thí là gốc rễ của tất cả các thiện pháp. Bố thí là
pháp tu, hạnh tu mà những người kém phước đức và trí huệ cần noi theo. Chư vị hiền thánh nhơn kim cổ đều trải qua các hạnh tu bố
thí.
* * *
Tóm lại, nhờ tu hạnh bố thí chúng
ta diệt được lòng tham lam ích kỷ ở tự tâm, thể nhập tự tánh bình đẳng, đại từ
đại bi, đem lại sự no ấm, thoát khổ đặng vui, đều nhờ công năng tài thí. Chúng
ta cũng có thể phát triển chánh trí, phá trừ vô minh, si mê, thể nhập chân lý,
đem lại bình tỉnh, cởi mở sự lo buồn sợ hãi, khiến chúng sanh được sống thanh
thảng, tự tại, đó là nhờ công năng của pháp thí và vô úy thí.
Hạnh bố thí là nền tảng của các
nghiệp lành, nghiệp thiện, giúp con người sống trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam
độc: tham lam, sân hận, si mê. Pháp môn này, nói chung, mọi người ai ai cũng có
thể thực hành được, nhưng muốn thực hành cho đến mức độ cao thâm, rốt ráo tột
cùng, gọi là "ba la mật", chúng ta phải phát tâm bồ đề kiên cố, dũng
mãnh, bất thoái chuyển, tức là phát tâm lượng của các bậc Bồ Tát và Ðại Bồ Tát
vậy.
Cư sĩ Chính Trực