Trong Phật giáo không có khái
niệm số mệnh, tuy nhiên, kết quả của nghiệp (ý niệm, hành động, tập quán, thói
quen) đã tạo nên con người và hoàn cảnh sống, kết quả của nghiệp có tính quyết
định hình thành nên cái mà con người ngộ nhận là số mệnh, định số hay định
mệnh. Số mệnh là cái mà con người cho là thiên định (trời định), không một ai
có thể thay đổi trừ phi ý trời thay đổi khi con người làm điều gì đó cảm động
lòng trời. Nhưng nghiệp thì khác, nghiệp do con người tạo ra, và phản ứng của
nghiệp (nghiệp quả, hậu quả của nghiệp) trở lại tác động, chi phối con người.
Tính chất của nghiệp là duyên sinh, bất định, cho nên có thể thay đổi.
Con người có thể thay đổi số mệnh
(nói đúng hơn là thay đổi nghiệp, là chuyển nghiệp nếu như nghiệp quả chưa hình
thành, nhân chưa trổ quả) bằng cách thay đổi nhận thức, tư duy, hành động, tập
quán, thói quen (chuyển đổi ba nghiệp thân, khẩu, ý).
Thời đức Phật, Angulimàla là một
tên cướp khét tiếng đã giết 999 người và lấy ngón tay của những nạn nhân xâu
lại thành chuỗi rồi đeo ở cổ để thị uy. Nhưng từ khi gặp đức Phật, được đức
Phật giáo hóa, Angulimàla đã tỉnh ngộ và quyết tâm hồi đầu hướng thiện. Sau khi
quy y Phật và xin xuất gia, Angulimàla nỗ lực tu tập để chuyển hóa tự thân. Sau
một thời gian tinh tấn tu tập chuyển hóa, dù trải qua nhiều khó khăn thử thách
do phải nhận lãnh quả báo của những ác nghiệp mà mình đã tạo, cuối cùng
Angulimàla cũng chứng đắc thánh quả A la hán, quả vị giải thoát cao nhất của
hàng Thinh văn.
Trong quá trình tu tập, suốt một
thời gian dài tinh thần Angulimàla không được yên ổn, ông thường xuyên bị ám
ảnh bởi những cảnh tượng giết chóc rùng rợn và những âm thanh kêu la thảm thiết
của các nạn nhân trước đây ông giết hại. Nhiều lần trên đường đi khất thực, Angulimàla
bị thân nhân của những người đã bị ông sát hại ném đá, dùng gậy gộc đánh đập
một cách dã man để trả thù, khiến cho ông bị thương tích máu me đầy mình. Tuy
nhiên Angulimàla vẫn kiên nhẫn chịu đựng, cố gắng điều phục nỗi sân hận trong
lòng. Để hỗ trợ cho sự tu tập của Angulimàla, đức Phật đã giải thích cho ông
hiểu rằng những điều không hay xảy đến với ông đều là kết quả của những ác
nghiệp mà ông đã tạo. Hiểu được điều đó, Angulimàla càng cố công tu tập và nhẫn
chịu mọi sự oán nghịch. Với tâm xả ly và sự tinh tấn hành trì giáo pháp, dần
dần Angulimàla đã vượt qua được những bất an mà trước đây ông thường xuyên đối
mặt.
Một hôm nọ trên đường đi khất
thực, Angulimàla gặp một người phụ nữ trở dạ nhưng khó sinh đang đau đớn kêu
gào. Angulimàla không biết làm gì để giúp người phụ nữ ấy, ông trở về cầu xin
đức Phật chỉ cách giúp người kia. Đức Phật dạy Angulimàla đến nói với người phụ
nữ khó sinh kia như sau: “Này chị, từ khi tôi được sinh vào hàng thánh chúng,
tôi chưa hề giết hại bất cứ một loài hữu tình nào. Cầu mong lời nói chân thật
này giúp cho chị được khỏi đau đớn, con của chị được sinh ra an toàn”.
Angulimàla trở lại nơi gặp người phụ nữ khó sinh, ông ngồi cách người phụ nữ
kia một bức màn rồi đọc lại lời Phật dạy, người phụ nữ bỗng hết đau tức thì và hạ
sinh đứa con dễ dàng.
Sự dừng lại, không tiếp tục tạo
tác những nghiệp bất thiện, nỗ lực tinh tấn thực hành điều thiện, tu tập chuyển
hóa nội tâm đã giúp Angulimàla thay đổi từ một con người tội lỗi trở thành bậc
hiền nhân thánh thiện, và sau cùng là thành tựu quả vị giải thoát, dự vào hàng
thánh chúng (Xem Lịch sử đức Phật Thích Ca, phần đức Phật và Angulimàla,
HT.Thích Minh Châu biên soạn, Trường Cao cấp Phật học Việt Nam, cơ sở II ấn
hành, 1988).
Trong bài tựa sách Đồng Mông Chỉ
Quán, Đại sư Trí Khải có thuật lại một câu chuyện chuyển nghiệp, làm thay đổi
nghiệp quả khi nghiệp quả sắp hình thành như sau: Có một vị Tăng trụ trì ở một
chùa nọ đã chứng quả A la hán, ông biết trong vòng bảy ngày nữa đệ tử mình sẽ
chết, bèn bảo người đệ tử ấy về thăm nhà. Trên đường về nhà, người đệ tử thấy
một ổ kiến trên bờ đê có nguy cơ bị dòng nước xoáy cuốn trôi. Người đệ tử động
lòng thương bèn đắp lại chỗ đê sắp bị vỡ để cứu ổ kiến. Sau đó người đệ tử tiếp
tục lên đường về thăm nhà. Qua bảy ngày người đệ tử vẫn bình an trở lại chùa
trước sự ngạc nhiên của vị thầy. Thấy người đệ tử chẳng những không chết mà khí
sắc còn tốt hơn trước, vị thầy lấy làm lạ bèn hỏi người đệ tử đã làm những việc
gì trong thời gian về thăm nhà. Người đệ tử thuật lại cho thầy nghe về việc mình
cứu ổ kiến trên đường đi. Nghe xong vị thầy cho người đệ tử biết, chính nhờ
phát tâm từ bi cứu mạng lũ kiến mà chuyển được nghiệp, thay vì phải chết trong
vòng bảy ngày nhưng lại không chết mà còn tiếp tục sống thêm nhiều năm nữa.
Người đệ tử của vị Tăng A la hán
đã cứu vô số sinh mạng, tạo thiện nghiệp (phước nghiệp) quá lớn có năng lực làm
thay đổi nghiệp quả sắp hình thành cướp đi mạng sống của mình. Nhờ phước nghiệp
nên chẳng những không chết mà còn được tăng thọ mạng. Trên là một số trường hợp
điển hình về sự thay đổi số mệnh, hay nói cho đúng hơn là sự chuyển nghiệp, làm
thay đổi nghiệp quả. Một số vấn đề về nghiệp và sự chuyển nghiệp:
1. Thời gian chuyển nghiệp
Phải mất thời gian bao lâu mới có
thể chuyển được nghiệp, làm thay đổi bản thân, hoàn cảnh sống của chúng ta?
Nghiệp được chuyển hóa, làm thay đổi như thế nào chủ yếu tùy thuộc vào: 1. sự
chuyển hóa tâm của người đó, 2. mức độ nặng nhẹ, nhiều ít của nghiệp, 3. cách thức, phương tiện tu tập, trau giồi,
rèn luyện để chuyển hóa tư duy, nhận thức, lời nói, hành động việc làm (ba
nghiệp thân, khẩu, ý), tạo nhân duyên lành, công đức, phước báu.
Ví dụ như một người gầy yếu
thường hay đau ốm bệnh hoạn, có thể trong quá khứ đời này hay đời trước người
đó tạo nghiệp sát sinh nhiều, hoặc làm tổn hại sức khỏe, tánh mạng người khác,
trong đời hiện tại sống buông thả, không ý thức bảo vệ sức khỏe (rượu chè, hút
sách, sắc dục quá độ, ăn uống ngủ nghỉ không chừng mực v.v..) Muốn chuyển hóa
cái nghiệp đó để trở thành người khỏe mạnh, sống lâu thì phải nỗ lực thiết lập
lại nề nếp sinh hoạt, sửa đổi lối sống, trau giồi phẩm chất đạo đức, rèn luyện
bản thân, biết chăm sóc sức khỏe của mình, ngoài ra còn phải biết phóng sinh,
bảo vệ sức khỏe, mạng sống người khác (cho thuốc chữa bệnh, giúp đỡ các phương
tiện điều trị bệnh, chăm sóc người bệnh hoạn tật nguyền…) Đó là tạo các nghiệp
khỏe mạnh, sống lâu, chuyển đổi các nghiệp bệnh hoạn, đoản mạng.
Người này có thể cải thiện được
sức khỏe, làm thay đổi điều kiện cơ thể như thế nào, mất thời gian bao lâu thì
thấy được sự đổi khác, tất cả đều tùy thuộc vào ý chí và nghị lực, sự dụng tâm
và dụng công của anh ta, tùy thuộc vào phương pháp thực hiện chuyển hóa (chế độ
ăn uống, vận động, nghỉ ngơi, tập luyện, nền nếp sinh hoạt, làm việc, quan niệm
sống, lối sống…) Điều cần lưu ý là:
1.Cần nhiều điều kiện nhân duyên mới đưa đến kết quả. Kết quả đến mau hay chậm,
có được như mong đợi hay không (chuyển hóa được bao nhiêu phần, nhiều hay ít)
đều tùy thuộc vào các điều kiện nhân duyên đó.
2.Người kia cũng không thể đoán trước được rằng sau khi chuyển hóa
(chuyển nghiệp) thì sức khỏe mình ở mức độ nào, cũng không thể hình dung được
sau khi chuyển hóa mình sẽ ra sao, trông như thế nào (về tướng mạo, dáng dấp…).
Một ví dụ khác, như người có hoàn
cảnh nghèo khổ khốn khó chẳng hạn. Có thể trong quá khứ đời trước hoặc đời này
người đó tạo các nghiệp khinh khi người nghèo, tham lam ích kỷ, lười biếng,
hoặc lừa đảo, chiếm đoạt, trộm cắp, hoặc trốn thuế, giật nợ…nên trong hiện tại
phải chịu cảnh nghèo khó khốn khổ. Người này muốn chuyển nghiệp để làm thay đổi
thân phận, điều kiện hoàn cảnh sống của mình thì phải nỗ lực thay đổi quan niệm
nhận thức, tập quán thói quen của mình, tích cực lao động, học tập, nâng cao
trình độ, trau giồi phẩm chất đạo đức (chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý), ngoài
ra cần tạo các phước nghiệp như bố thí, giúp đỡ người nghèo khó cơ nhỡ, người
đang lâm hoạn nạn, phóng sinh (mở rộng tấm lòng, nuôi dưỡng tâm từ bi, rộng kết
duyên lành với các chúng sinh khác), cung kính, cúng dường Tam bảo, các bậc cao
đức, ông bà cha mẹ (vốn là ruộng phước đáng để chúng sinh gieo trồng).
Mất thời gian bao lâu, giảm bớt
mức độ nghèo khó được bao nhiêu, hoàn cảnh đời sống người đó thay đổi như thế
nào, tất cả đều tùy thuộc vào sự dụng tâm và dụng công, những nỗ lực chuyển hóa
của người đó. Cũng như ví dụ trước, chúng ta không thể xác định được khi nào
người đó hết nghèo khó, khi nào người đó bớt khổ, hay khi nào người đó giàu
sang sung sướng, hạnh phúc, nhưng có thể biết chắc rằng, hễ có nỗ lực chuyển
hóa thì có sự thay đổi, chuyển biến. Có thể vào thời điểm nào đó trong đời sống
hiện tại (nếu như nghiệp nghèo khó của người đó nhẹ và anh ta biết cách chuyển
hóa nó), người đó sẽ không còn nghèo khó khốn khổ nữa, nhưng cũng có thể trong
đời sống kế tiếp (kiếp sau, nếu như nghiệp nghèo khổ của người đó quá nặng và
anh ta không biết cách chuyển hóa nó).
Trong kinh Na Tiên Tỳ kheo, khi
vua Mi Lan Đa (Milinda) hỏi: “Có thể chỉ rõ kết quả của việc lành việc dữ sẽ
tựu thành ra sao trong đời sau được không?” Tỳ kheo A la hán Na Tiên (Nagasena)
đã trả lời: “Không thể. Ví như trên một thân cây chưa ra trái, không có cách gì
biết được trái sẽ kết tụ ở cành nào và tại chỗ nào nhất định trên cây. Cũng như
thế, trong vòng sinh tử vô thủy vô chung vô cùng vô tận, người chưa đắc đạo
không thể nào đoán biết những việc thiện ác sẽ thành tựu ra sao và ở đâu một
cách chính xác”. Câu trả lời này không khác với lời đức Phật cho biết về nghiệp
quả trong kinh Tăng Chi bộ I, phẩm Bốn pháp: “Có bốn phạm trù không thể tư duy,
đó là: Phật giới, thế giới tâm, thiền định của người tu thiền và quả dị thục
của nghiệp”. Chúng ta không thể nào tư duy được về quả dị thục của nghiệp (quả
đã chín muồi, đổi khác so với nhân ban đầu), bởi vì tất cả nghiệp nhân, nghiệp
quả đều là duyên sinh cho nên bất định.
2.Thân thọ nghiệp, tâm thọ nghiệp, thân và tâm đều thọ nghiệp
Khi nghiệp tác động, biểu hiện ở
thân, đó là thân thọ nghiệp. Khi nghiệp tác động, biểu hiện ở tâm, đó là tâm
thọ nghiệp. Khi thân và tâm đều chịu sự tác động của nghiệp, đó là thân và tâm
thọ nghiệp. Tuy nhiên giữa thân và tâm có mối quan hệ không thể tách rời nên
khó có thể phân biệt một cách rạch ròi đâu là thân thọ nghiệp và đâu là tâm thọ
nghiệp, bởi vì khi thân đau thì tâm cũng khổ, mà khi tâm khổ thì thân cũng mệt
mỏi, khó chịu, thậm chí phát sinh các bệnh lý. Những nỗi khổ về thân xác và
những nỗi khổ về tinh thần có mối quan hệ, ảnh hưởng qua lại với nhau.
Ví dụ như trường hợp tướng cướp
Angulimàla phải thọ lãnh nghiệp quả bị người thân của những nạn nhân của ông
chửi mắng, đánh đập (thân thọ nghiệp), và tâm ông cũng thường xuyên không an
ổn, luôn bị ám ảnh bởi những việc ác ông đã gây ra (tâm bất an là hiện tượng
tâm thọ nghiệp).
Do nghiệp nhân như thế nào, tốt
hay xấu, thiện hay ác mà đưa đến nghiệp quả hạnh phúc hay khổ đau, điều kiện,
hoàn cảnh bản thân, điều kiện, hoàn cảnh đời sống tốt hay xấu. Nếu nghiệp nhân
xấu, bất thiện thì nghiệp quả xấu đưa đến sẽ tác động, chi phối làm cho con
người phải chịu những cái khổ nơi thân và tâm, khổ vì hoàn cảnh đời sống, tựu
trung là tám cái khổ lớn (Bát khổ): Sinh khổ, già khổ, bệnh khổ, chết khổ, khổ
vì mong cầu mà không được, khổ vì oán ghét gặp nhau, khổ vì yêu thương mà phải
chia lìa (sinh ly, tử biệt), khổ vì thân ngũ uẩn giả hợp luôn thay đổi, biến
hoại. Tám cái khổ này, con người thọ lãnh nhiều hay ít, thọ cái khổ nào nhiều,
thọ cái khổ nào ít đều tùy thuộc vào nghiệp đã tạo.
3.Thân thọ nghiệp mà tâm không thọ nghiệp
Do nghiệp quá khứ chiêu cảm quả
báo nên nghiệp quả tác động đến người tạo nghiệp. Nhưng nếu người ấy có tu tập,
có sự rèn luyện tâm, có nỗ lực chuyển hóa thì tuy thân có lãnh chịu nghiệp quả
nhưng tâm không thọ khổ hoặc ít thọ khổ (tùy thuộc vào mức độ tu tập).
Ví dụ như trường hợp Angulimàla
nhờ hiểu được những chướng duyên trong tu tập (bị người chửi mắng, đánh đập,
làm khó dễ; luôn bị ám ảnh bởi những hành vi bất thiện trước đó) đều là nghiệp
quả mà mình phải thọ lãnh do quá khứ đã tạo nghiệp nhân, và nhờ nỗ lực tinh tấn
hành trì giáo pháp, tu tập thiền định mà ông bớt khổ, cho đến khi tâm an định
và trí tuệ soi sáng thì tâm ông hoàn toàn thoát khỏi mọi phiền não khổ đau,
chứng thành đạo quả, lúc này dù phải trải qua cảnh máu đổ thịt rơi thì tâm ông
cũng không dao động, chỉ có thân thọ nghiệp (dư báo-nghiệp báo còn sót lại) mà
tâm vẫn không thọ nghiệp. Trong kinh Tương Ưng Bộ IV đức Phật đã khẳng định,
nghiệp quả của hành động ác có thể được khắc phục nhờ ăn năn hối cải và tu tập
phát triển công đức giới hạnh.
Đối với những ai chứng được vô
ngã pháp, không còn chấp thủ, thấy rõ “nghiệp chướng bổn lai không” thì tâm
không còn chịu sự tác động, chi phối của nghiệp quả, tuy thân có thọ nghiệp (do
còn mang thân tứ đại, nên phải chịu quả báo của nghiệp quá khứ) nhưng tâm không
khổ não, tuy thân thọ nghiệp nhưng tâm không thọ nghiệp, ví dụ như trường hợp
đức Phật, Tổ Sư Tử, Bồ tát An Thế Cao trả nghiệp.
Tổ Sư Tử khi du hóa đến nước Kế
Tân, vua nước này hỏi ngài rằng: “Ngài thấy ngũ uẩn đều không chăng?” Tổ đáp:
“Tôi thấy ngũ uẩn đều không”. Vua bảo: “Ngài cho tôi cái đầu được chăng?” Tổ nói: “Ngũ uẩn đã là không, sá gì cái đầu”.
Vua liền đưa đao chém đầu Tổ.
Bồ tát An Thế Cao sau 23 năm dịch
kinh, hoằng pháp ở Lạc Dương (Trung Quốc), với Túc mạng trí ngài biết mình còn
túc nghiệp chưa trả hết, cho nên nói với mọi người rằng: “Ta nay vẫn còn chút
dư báo, nên phải đi Cối Kê để trả cho xong”. Ngài bèn đến Cối Kê. Khi đi vào
chợ, gặp lúc có loạn, người ta đánh lầm trúng đầu ngài, thế là ngài qua đời. Tổ
Sư Tử và Bồ tát An Thế Cao tuy trả nghiệp, thọ báo nhưng tâm các ngài vẫn an
nhiên tự tại như không có thọ báo.