Sự nghiên cứu Sigmund Freud đã
thâm nhập đến tầng “vô ý thức” của tâm linh, thể hiện rõ ở quan điểm khai sáng
tinh thần bản năng Oedipus complex (nghĩa là sự nhập thai bắt nguồn từ sự luyến
ái mẫu thân). Ông đã lấy việc phân tích tâm lý để giải quyết vấn đề tự ngã,
nhưng tinh thần của nhà Phật đối với quan điểm Oedipus complex vốn không phải
là vấn đề căn bản của tâm lý. Tâm lý chỉ là nhân trợ giúp, mà căn bản tâm lý
con người là vấn đề “ngã chấp”. Tâm con người giống như một cây đại thụ mà việc
phân tích tâm lý chỉ là sự cắt gọt các cành nhánh của nó, nó vẫn tiếp tục phát sinh.
Việc truy tìm “tâm” của nhà Phật là sự đốn bạt và quật cả gốc lẫn rễ của nó.
“Tự ngã”, nhân loại từ xưa đến nay vẫn còn là
mối hoài nghi, “Tôi là ai? Tôi từ đâu đến? và sau đó tôi sẽ đi về đâu?” cho đến
“cái tôi” và sự vật có gì khác biệt? nếu nói “cái tôi” và sự vật giống nhau thì
chẳng khác nào chấp nhận sự khống chế của bản năng, thế thì “cái tôi” có thể
nào siêu vượt bản năng? “Cái ngã” siêu vượt bản năng vẫn là sự phủ nhận “cái
tôi” nguyên thủy? Nếu nói không phải thế thì sao lại có “cái ngã” hiện tại này?
Thân thế và sự nghiệp Sigmund
Freud Sigmund Freud (1856-1939), nhà tâm lý học người Áo, là người khai sáng
học phái tinh thần phân tích. Ông xuất thân trong một gia đình thương nhân làm
nghề buôn bán lông cừu. Ngay từ nhỏ ông chỉ quấn quýt bên mẹ và rất sợ ánh mắt
nghiêm nghị của cha, nhưng đối với mẹ thì cảm tình luôn thân mật thắm thiết. Có
lẽ từ cái nguyên nhân ban sơ này mà ông đã đề xướng lý luận tinh thần khai sáng
bản năng Oedipus complex. Năm 1873 ông vào đại học, vừa học vừa làm việc và
nghiên cứu tại Viện nghiên cứu sinh lý Blucher. Năm 1891 ông tốt nghiệp tiến sĩ
y học, 1882-1885 ông là giáo sư tại Bệnh viện Tổng hợp thủ đô Vienna (Áo). Từ công việc nghiên cứu của mình
ông đã đưa ra phương pháp bệnh lý học và giải phẫu thần kinh học. Trong khoảng
thời gian từ 1886-1938 ông đã thực hiện phương pháp tinh thần trị liệu, dùng
biện pháp thôi miên khiến cho bệnh nhân nói ra những điều chất chứa trong nội
tâm, từ đó mà bệnh tình sẽ trở nên tốt hơn.
Khoảng năm 1892, ông phát hiện
những phương pháp trị liệu của mình không có hiệu quả dài lâu, nên đã dùng
phương pháp trị liệu mới gọi là “tinh thần phân tích” hoặc “tự do liên tưởng”
(Free association), phương pháp trị liệu này khiến cho bệnh nhân ngay trong
trạng thái tỉnh giác đã đem những điều liên tưởng hoặc ý niệm từ lâu bị ức chế
trong lòng mà thổ lộ ra hết. Năm 1900 ông xuất bản cuốn “Giải thích giấc mộng”,
và được xem như là sự chính thức ra đời của “tinh thần phân tích học”. Năm 1930
ông sáng lập Hội “Tinh thần phân tích” quốc tế. Đến năm 1939, ông mắc bệnh ung thư
và qua đời tại Anh quốc.
Quan điểm tự ngã và sự phân tích của Freud
S. Freud xem tự ngã (Ego/ Ich)
như là tri giác, ý thức bản ngã (id/Es), thậm chí cho đến (có thể xem là tri
giác, là ý thức). Ông nói, tự ngã chỉ là một bộ phận nhỏ trong bản ngã. Kết cấu
bản ngã chủ yếu là nguyên nhân của dục kích động đến vô ý thức (Unconscious/
Unbewusstes), Preud gọi nó là “libido”, là từ thông thường để chúng ta gọi bản
ngã (Instinct/ Instinkt). Bản ngã và tự ngã phân hóa biểu hiện ra siêu ngã
(super-ego/ Ueber -Ich). Siêu ngã là sự siêu việt lý tưởng đạo đức và lương
tri, do vô ý thức và tiềm ý thức kiến tạo nên. Do vậy, nhân ngã cũng là bản
ngã.
Năm 1923, Freud trong cuốn “Tự
ngã và bản năng” đã nói: “kết cấu nhân cách (tripartite personality structure)
có ba phần, nhân cách là do sự cấu thành của bản ngã, tự ngã và siêu ngã.
Bản ngã (id), cũng còn gọi là
“nguyên ngã, thú ngã” là chỉ tiềm ý thức tối sơ nguyên thủy và câu sinh mà có,
trong đó bao hàm con người từ rất sớm đã tiếp cận tính kích động của bản năng,
của thú tính, nó giống như chiếc nồi chứa đầy bản năng và dục vọng sống động
đang sôi sùng sục, nó là tâm lý năng lượng phi lý tánh vô cùng mạnh mẽ, nó bám
theo “nguyên tắc khoái lạc” mà đi tìm con đường thoát ra, tìm cái ý vị thỏa
mãn.
Tự ngã (Ego) là chỉ bộ phận kết
cấu của ý thức, nó đến từ bản ngã và từ các ảnh tượng thế giới bên ngoài mà
hình thành nên hệ thống tri giác, nó đại biểu cho lý tánh và cơ trí. Ngoài ra
nó còn tiếp nhận cái “nguyên tắc hiện thực” giữa bản ngã và siêu ngã, giám sát
bản ngã và đưa đến những thỏa mãn thích đáng. Năng lượng của tâm lý tự ngã đa
phần bị tiêu hao bởi sự khống chế và gia ức của bản ngã, bản ngã có thể được so
sánh như một chiếc xe ngựa, tự ngã là dây cương, động lực là con ngựa mà người
cầm cương có thể hướng con người đi đúng phương hướng.
Siêu ngã (super ego) là chỉ bộ
phận tối cao trong nhân cách đạo đức (conscience), nó là đại biểu cho lương
tâm, tự ngã lý tưởng (ego-idead), còn là tầng vị cao nhất của nhân cách, luôn
tìm “nguyên tắc chí thiện” (per-fection principle) chỉ đạo tự ngã, hạn chế bản
ngã để dễ dàng đạt được lý tưởng tự ngã chuẩn mực.
Các học phái nghiên cứu về tinh
thần tâm lý của con người cũng cho rằng: Tự ngã là sự thống nhất hoàn chỉnh tất
cả các ý thức thuộc về siêu ngã, chỉ có điều bản ngã thường là do sự thúc đẩy
của dục, tìm cầu sự thỏa mãn nhu cầu dục tính của nó; còn siêu ngã là sự thúc
liễm và bảo hộ của lương tâm cho đến mọi sự kích động, xúi giục của sự vật bên
ngoài hoàn toàn được triệt tiêu và cảm phục, cho đến thực hành các nguyên tác
hiện hành “nhứt phốc tam chủ” (nhứt phốc: chỉ tự ngã; tam chủ: chỉ bản ngã,
siêu ngã cho đến những vấn đề hiện thực bên ngoài).
Lý giải tự ngã theo quan điểm “không” của nhà Phật
Nếu như tự ngã và siêu ngã đều là
một bộ phận của bản ngã mà bản ngã cũng chỉ là một vấn đề liệt vào các vấn đề sinh
khởi bên ngoài, nó chỉ do dục sống động mà phát sinh, như dòng chảy không
ngừng, quá trình biến động không trụ, tức tự thân của bản ngã vốn không phải là
tự tánh không biến đổi cho đến tự ngã và vô ngã cũng là sự biến động. Đây tức
là ý nghĩa “không” (sunya), “cứu cánh” của nhà Phật. Nghĩa “không” tức tự ngã
không, bản ngã không, cho đến siêu ngã cũng chỉ là sự chấp trước và mê chấp bám
trú vào sự vật.
Đây thể hiện tư tưởng đặc biệt
“không tông” của Đại thừa, thể hiện tinh thần tùy duyên của “Bát-nhã Ba La Mật
Đa Tâm Kinh”. Do Tiểu thừa Phật giáo đem “Ngã” phân thành sắc (vật chất), thọ
(cảm thọ), tưởng (tri giác và ức niệm), hành (ý chí và tư tưởng), thức (ý
thức). Tư tưởng của Tiểu thừa lấy năm uẩn này làm nhân tố cơ bản hình thành nên
sự tồn tại của nhân ngã (tự ngã của con người). Bước vào tư tưởng “không” của
Bát-nhã mà nói thể hiện ở chỗ “Ngũ uẩn giai không”—tức sắc chẳng khác không,
không chẳng khác sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thọ tưởng hành thức
cũng lại như thế”, cho đến 12 xứ —lục nội xứ, nhãn căn xứ, nhĩ căn xứ, tỷ căn
xứ, thiệt căn xứ, thân căn xứ, ý căn xứ. Và lục ngoại xứ—sắc xứ, thinh xứ,
hương xứ, vị xứ, xúc xứ, pháp xứ. Những yếu tố cơ bản này hình thành nên nhân
ngã (con người) cũng đều là không, cho đến Thập bát giới—lục căn: nhãn giới cho
đến ý giới, và lục cảnh: sắc giới cho đến pháp giới cùng với “lục thức”: nhãn
thức giới cho đến ý thức giới, các yếu tố này hình thành nên ý thức của con
người cũng đều bị nhà Phật phủ nhận “không tánh”.
Và hơn nữa “thập nhị nhân duyên”—
vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục
xứ, lục xứ duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên thủ, thủ duyên hữu, hữu duyên sinh,
sinh duyên lão tử cho đến khổ, ưu não đều do khổ uẩn mà cấu thành. Điều này
chứng minh rõ tư tưởng duyên khởi quán của Đại thừa: “Nhược thử hữu tắc bỉ hữu,
nhược thử sinh tắc bỉ sinh; nhược thử vô tắc bỉ vô, nhược thử diệt tắc bỉ
diệt”. Thậm chí Tứ Đế “khổ-tập-diệt-đạo”, bốn chân lý này là nền tảng của nhà
Phật cũng bị phá hủy và đốn triệt trên tinh thần nghĩa không, cho đến “lục độ”
còn gọi là “lục chủng đức” là mục tiêu thực tiễn của con đường thực hành Bồ-tát
đạo—bố thí độ, trì giới độ, nhẫn nhục độ, tinh tấn độ, thiền định độ và bát-nhã
độ mà đặc biệt lấy bát-nhã độ làm trọng tâm cũng bị nhà Phật đốn bạt theo nghĩa
“không” của bát-nhã.
“Thị cố không trung vô sắc, vô
thọ tưởng hành thức, vô nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý, vô sắc thanh hương vị xúc
pháp, vô nhãn giới nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệt, vô vô minh tận, nãi
chí vô lão tử, diệt vô lão tử tận; vô khổ tập diệt đạo, vô trí diệt vô đắc”. Ở
đây thì “không” chính là cảnh Niết-bàn của nhà Phật. Có thể nói cách khác, chủ
trương phá trừ toàn bộ chấp trước (bao gồm nhân ngã chấp và pháp ngã chấp) mà
đạt được cảnh giới “không”.
Sự thành tựu khoa học của S. Preud là đều khó có thể để ông ta thể nghiệm và chấp
nhận nghĩa “không” như nhà Phật đã minh chứng. Thành tựu khoa học của ông chứng
minh sự vật tồn tại một cách rõ ràng, thành tựu ấy là giá trị quan trọng mà ông
đeo đuổi. Hơn nữa, nhân loại vốn dĩ tự vô thỉ đã hằng chấp trước vào tự ngã là
trường tồn bất biến, con người đã thừa nhận cái ngã này như một thực thể vĩnh
hằng, nhưng họ hoàn toàn không hiểu “ngã chấp” rốt cuộc do đâu phát sinh? Do
vậy cần nương vào Đại thừa Phật giáo để hiểu một cách tận tường làm minh chứng
cho tự ngã này từ đâu đến và sau đó sẽ đi về đâu?
Sự minh chứng “Ngã” trên lập trường của Duy Thức học
Đại thừa Phật giáo phân tích ngã
chấp đều thuận theo sự thể chứng và xác lập “Duyên khởi quán” của đức Phật.
Ngài nói rằng: “Thử hữu cố bỉ khởi, thử vô cố bỉ diệt”. Nếu như đứng trên lập
trường “hữu”của Đại thừa và Tiểu thừa thì khái niệm về nhân ngã có phần sai
biệt. Nhân ngã trong Tiểu thừa Phật giáo dựa trên nền tảng lục thức (nhãn, nhĩ,
tỷ, thiệt, thân, ý). Nhưng đến Đại thừa tiến lên một bước phân tích: tiền ngũ
thức trong lục thức đều có đủ tương ưng tự thân “căn” tức—thân căn, nhĩ thức
tức—nhĩ căn, v.v… Thế còn ý thức thì sao? Ý thức có vô tương ưng tự thân không?
Nếu như nói y nhãn căn mà có căn thức, thế thì ý thức là tương đương với ý y
vào nơi căn, đồng với đạo lý này cho thấy mạt-na thức cũng không phải là cái
cây không có gốc, không phải là dòng nước không có nguồn, mạt-na y vào a-lại-da
thức, tức tàng thức.
Căn cứ Thành duy thức luận: Thức
này có đủ: “năng tàng, sở tàng và ngã ái chấp tàng”. Năng tàng tức a-lại-da
thức có thể tàng trữ chủng tử của các pháp. Sở tàng nghĩa là từ xưa đến nay
thức này tiếp nhận tất cả chủng tử xấu ác mà tích chứa vào. Ngã ái chấp tàng
nghĩa là a-lại-da thức bị mạt-na vọng chấp làm ngã nên gọi là chấp tàng. Vọng
chấp tích chứa từ xưa đến nay thành ra “vô minh”, do đây chúng ta có thể thấy
mạt-na do nương a-lại-da mà hiện khởi; ngược lại a-lại-da thức cũng do mạt-na
mà hiện hành. Do đây có thể nói hai thức này đều hỗ tương mà làm căn.
Tại sao nói vọng chấp là Ngã? Vì
bản thân a-lại-da thức cho đến tất cả những chủng tử sở đắc đều không có bất kỳ
tự thể hoặc tự tánh không biển đổi, như trong Duy thức tam thập tụng luận nói:
“a-lại-da thức hằng chuyển như bộc lưu” tức tánh của thức này vô thỉ dĩ lai,
sát na theo nhân quả mà sinh diệt, quả sinh nên chẳng đoạn, quả diệt nên chẳng
thường, chẳng đoạn chẳng thường là lý duyên khởi. Vả lại, trong Duy thức bổn,
công năng sai biệt có sáu nghĩa (Nhất sát-na diệt; nhị quả câu hữu; tam hằng
tùy chuyển; tứ tánh quyết định; ngũ đắc chúng duyên; lục dẫn tự quả), nếu như
đem sinh diệt, diệt sinh lưu chuyển biến dịch mà chấp làm bản thể tự ngã thì há
chẳng phải là vọng chấp sao!?
Kỳ thật không chỉ nhân ngã mà còn
pháp ngã cũng đều là kết quả của vọng chấp. A-lại-da thức là gốc sở y của giới,
thú, sinh. Cho nên “Duy thức tam thập tụng luận tụng” khai ra biến văn mà nói:
“do giả thuyết ngã phấp, hữu chủng chủng tương chuyển, bỉ y thức sở biến”, mà
làm thành thức năng biến, đặc biệt a-lại-da thức tự thể hoặc tự tánh của nó
không thể không biến chuyển. “Thị không” cũng do vọng chấp sản vật cùng cảnh
tượng mà sinh. Căn cứ nơi đây phản biện căn cứ bản ngã của Freud cho đến bản
năng vô ý thức, tự ngã cho đến giác, tri thức, v.v… chỉ là kết quả của vọng
chấp.
Điểm tương đồng của Freud và Phật giáo
Freud là người nổi tiếng nắm giữ
khoa học, là nhà lập trường tâm lý học, nhà y học, nhà nghiên cứu Tôn giáo học…
nếu đem tất cả các trước thuật của ông làm tiền đề giả định nghiên cứu, dường
như không phải là điều phi nghĩa. Freud trong phương diện nghiên cứu “tâm lý
huyền học” có một bộ phận thống nhất với nhà Phật, như ông đã từng nói: “bản
ngã trong vô ý thức chính là cội nguồn của dục “nguyên tắc khoái lạc” (pleasure
principle), cũng như nhà Phật minh chứng a-lại-da thức từ xưa đến nay không chỉ
có pháp vô minh hữu lậu mà có cả vô lậu y cứ vào đây, do vậy sau khi tu tập các
chủng tử tập khí xấu ác mới dần được đoạn trừ, như Thành thật luận có nói: “thị
cố tâm tánh phi thị bản tịnh, khách trần cố bất tịnh”.
Vì chúng sinh tâm thường cố chấp
nên Phật nói trần là bất tịnh, vì sự giải đãi của chúng sinh, Phật lại nói, nếu
họ nghe bản tâm này là bất tịnh, trần là nhiễm ô, e rằng họ không có ý cải
thiện tự tánh, càng không chịu phát huy tính thanh tịnh nơi bản tâm cho nên
Phật vì chúng sinh mà nói bản tâm thanh tịnh.
Cũng như Freud đã từng nói con
người sở dĩ có sự nhập thai là bắt nguồn từ việc “luyến ái mẫu thân—Oedipus
complex”. Với Phật giáo, từ rất sớm Bồ tát Long Thọ trong Đại trí độ luận đã
minh chứng rõ ràng “dư nhân tại trung ấm trú thời, nhược nam, vu mẫu sinh dục
nhiễm tâm; thử nữ nhân dữ ngã tùng sự; vu phụ sinh sân nhuế. Nhược nữ, vu phụ sinh
nhiễm dục tâm; thử nam tử dữ ngã tùng sự; vu mụ sinh sân nhuế” (thai nhi lúc ở
trong thân trung ấm, nếu là nam, đối với mẫu thân sinh tâm dục nhiễm, thai nhi
này với người mẹ này có luyến ái tình chấp; nhưng đối với phụ thân lại sinh tâm
oán ghét.
Nếu là nữ, đối với phụ thân sinh
tâm dục nhiễm, nhưng thai nhi này với người cha này có luyến ái tình chấp, đối
với mẫu thân lại sinh khởi oán ghét). Về sau còn có thuyết Liên hoa sinh (Padma
– sambhava), trong “Trung Ấm đắc độ kinh” càng miêu tả một cách tinh tế “nếu
như sinh làm thân nam, cảm giác là nam tánh, tức hiển thị thức tánh thuộc trí
năng mà mang một loại căm ghét đố kỵ phụ thân và có khuynh hướng tình cảm hướng
đến mẫu thân mà sinh niệm luyến ái đều do đây mà sinh. Nếu như sinh làm nữ thân
thì thân cảm giác là nữ tánh, tức hiển thị thức tánh thuộc trí năng, mà có
khuynh hướng oán ghét hướng đến mẫu thân, tình cảm luyến ái phụ thân do đây sinh
khởi.
Đương nhiên nhà Phật xác nhận ngã
chấp và pháp chấp đều là vọng chấp nên phá trừ các chấp này, cần nên ý thức
sáng suốt đối với ngã chấp, tình chấp, pháp chấp cho đến vấn đề phá chấp cũng
không. Đây có thể nói là đã phá được cái lưới vây bủa tàng thức tự vô thỉ dĩ
lai vậy. Nhà Phật đối với hết thảy vấn đề và phương pháp tu hành đều do năng
lực của mỗi con người mà thực hành, sự chứng ngộ không nằm ngoài tự thân của
mỗi chúng ta.
Như trong Duy thức học đã phân
tích rất cặn kẽ về ngã chấp bao gồm hai phương diện: (1) Câu sinh ngã chấp. (2)
Phân biệt ngã chấp. Sự chấp ngã, chấp tàng nơi a-lại-da thức đều do thức này từ
vô thỉ dĩ lai do vô minh lậu khiến cho mạt-na hằng thẩm tư lương nhiễm ô mà
thành ra có tự ngã (tự nội ngã hoặc ngã trong ngã) đều là do câu sinh ngã chấp
thuộc về tư hoặc còn gọi (ngã mạn); vả lại cảm tri về ngã, ý thức về ngã… loại
này đến từ cuộc sống thường tình của thế tục đều thuộc phân biệt ngã chấp,
thuộc về kiến hoặc (ngã kiến).
Nhà Phật do đây mà thiết lập
“nhất thiết tri kiến” nhằm phá trừ tình chấp của phàm phu, cho đến buông bỏ
quan niệm vô ngã đối với mọi sự chấp trước, đây cũng là vấn đề then chốt khiến
cho mạt-na từ vô thỉ dĩ lai dựa vào “vô lậu tịnh chủng tử” trong tàng thức
không còn chỗ y cứ, bước vào chuyển vô lậu thức thành vô lậu trí, chuyển phiền
nào thành bồ-đề, chuyển sở tri chướng chứng Vô thượng giác, chư lậu hoặc đã
vĩnh viễn đoạn tận, tánh tịnh viên minh sẽ chiếu sáng. Lý luận tự ngã và thực
tiễn về tự ngã thống nhất thành giác hạnh viên mãn, cũng đạt được thế gian viên
mãn, tức là thế giới trang nghiêm tịnh độ của nhà Phật vậy.
Vấn đề còn hạn chế của Freud đối với Phật giáo
Freud không hiểu thấu quan điểm
vô ngã và trí xuất thế gian của nhà Phật. Ông chủ yếu thông qua nghiên cứu thực
chứng khoa học mà chỉ ra bản ngã và bản năng của con người. Thế nhưng ông cũng
chỉ rõ được các bệnh của con người nhờ vào phương pháp quan sát thần kinh quang
năng và tinh thần phân tích bản năng của nhân loại từ đó dùng tâm lý học làm
phương thức trị liệu vô cùng có hiệu quả. Mặc dù ông vẫn còn bị hạn chế trong
minh chứng của mình để vén màn bí mật tự ngã nhưng cũng có thể nói rằng: ông là
người xây nền tảng đầu tiên cho các nhà nghiên cứu tâm lý học làm chuẩn mực mà
bước vào lĩnh vực nghiên cứu tâm lý con người, ông cũng đã cống hiến sự nghiệp
nghiên cứu cao cả của mình cho nhân loại và hóa giải được sự hoài nghi về con
người “từ đâu đến và sẽ đi về đâu”. Đây là vấn đề đáng được nêu ra đối với
Freud.
Xét theo quan điểm của nhà Phật,
Freud đã chỉ ra được “tình kết luyến ái mà sinh thân – Oedipus complex”, “ngã
chấp tình luyến” nó là nhân tố mạnh nhất, là gốc rễ ban đầu mang ý niệm luyến
ái và oán ghét đi vào thai, đưa đến sinh thân. Ái chấp vào tự ngã, ái duy trì
và bảo hộ dục vọng đối với tự ngã. Do đây quyết xác rằng câu sinh ngã chấp
chính là vô minh từ vô thỉ đến nay.
Mặc dù sự cống hiến của Freud
được xem là vô cùng to lớn trong lĩnh vực khoa học, nhưng nhà Phật cũng không
hoàn toàn tán thành tinh thần phân tích tâm lý học của ông. Vì vấn đề phân tích
tâm lý của Freud cũng như các học giả nghiên cứu tâm lý học còn quá cạn cợt,
không đủ tính thuyết phục triệt để, trong khi tâm lý con người phức tạp giống
như một cây đại thọ rậm rạp xum xuê mà tinh thần phân tích tâm lý chỉ là sự gọt
bớt các cành nhánh của nó, nó vẫn cứ sinh trưởng, còn quan điểm nhà Phật lại
muốn đào quật cả gốc lẫn rễ của cây đại thụ này.
Chính là vén bức màn bí mật “tự
ngã” để thấy được cái ngã rỗng không là “vô ngã”. Nhà Phật hoàn toàn phủ nhận
cái ngã trường tồn bất biến, mà ngã được hình thành từ luyến ái tình chấp đối
với con người cũng như sự vật bên ngoài.
Kết luận
Nhà Phật ứng dụng pháp môn “chỉ
quán”, do sự thể nhận và phá trừ ngã chấp vô thỉ, ngã đã không tồn tại thì làm
gì có tự thể, làm gì có tự ngã bất biến huống gì ngã của dục vọng, sân hận, đố
kỵ, ngã mạn, ngã kiến, ngã si… đừng nói chi ngã của tâm sở pháp, nó càng không
có bất cứ tánh cố định nào. Do vậy sự chấp trước vào bất cứ vấn đề nào đối với
tự ngã cũng chỉ là sự mê chấp của dục vọng.
Các học giả phương Tây trong
nghiên cứu của mình đã thiếu đi sự thể nghiệm tư tưởng “Không quán” của nhà
Phật, người đi sau cũng chỉ nhìn nhận một cách hời hợt mà phán đoán tâm lý tự
ngã của con người. Tâm lý học gia người Mỹ W. James đã từng có một câu nói giản
đơn: “Người ta không thể ngăn cản được dòng chảy liên tưởng của tâm; tôi đã thử
qua nó nhưng đều không thể được, làm được điều này không phải là việc dễ, tức
chúng tôi đối với ngã đã có một sự nhận thức chỉ trên lý luận, chúng tôi vẫn
thiếu đi sự thật thể nghiệm và tư duy, không giống như nhà Phật tháng tháng năm
năm hoàn toàn chuyên tâm vào việc quan sát tinh thần, thẩm xét và tư duy, từng
chuỗi từng chuỗi tư tưởng không ngừng xuất hiện đều được nhà Phật nhận rõ cho
đến khi đạt được nó (tư tưởng), và tiếp tục từ trong tư tưỏng này mà phóng
thích nó”.
Nguồn Tập San Pháp Luân 75