Cuộc sống có ý nghĩa, có giá trị
là cuộc sống hiểu rõ sự hư dối mâu thuẩn của kiếp người. Muốn đi sâu vào những
sinh hoạt đó, sự xét nghiệm, phê phán và tự giác là một yếu tố rất cần thiết.
Tôn giáo có ở đời là nhằm đáp ứng cho mục đích nầy. Mục đích đưa con người đến
chổ hiểu rõ thế nào là chân thế nào là giả. Rồi từ đó chúng ta lần lần đi đến
chổ bỏ giả tìm chân. Ðó là ý nghĩa của tôn giáo học. Vì thế ông Windelband đã
nói: Tôn giáo là phương tiện đưa con người đến chỗ thánh thiện siêu việt. Ðời
sống ấy phải là đời sống vượt ra ngoài những kinh nghiệm tầm thường để thể nhập
vào thế giới nội tâm. Tôn giáo mà ông windelband nói ở đây là Phật giáo, nhất
là thiền, một phương pháp trở về với nội tâm.
Thật vậy, Phật Pháp là phương
pháp chỉ dẫn mọi người hiểu rõ những hư vọng giả dối của cuộc đời và đoạn trừ
những dục vọng tham sân đố kỵ..v..v..Bởi vì dục vọng tạo nên sự mê mờ cho nên
con người mãi sống trong cuộc sống Tuý Sanh Mộng Tưởng, và như thế cuộc đời sẽ
trở thành vô nghĩa, vô giá trị. Ðời mà vô nghĩa vô giá trị thì chẳng khác nào
chính mình tự đào huyệt chôn mình trong mê mờ đau khổ. Chư
phật chư tổ cũng là con người như bao nhiêu con người khác. Nhưng các ngài đã
hiểu rõ cuộc đời, hiểu rõ nguyên nhân của khổ vui..v..v..một cách thấu triệt.
Biết rõ những đau khổ phiền toái đến với mọi người và không chừa bất cứ một
người nào. Nó sẽ đến từng gia đình từng hoàn cảnh. Như trong một gia đình nghèo
nàn khổ sở thì lẽ dĩ nhiên họ phải sống với cuộc sống nghèo túng khổ sở. Một
gia đình giàu có sang trọng, họ cũng có cái khổ tâm của họ. Có ai tự hào
rằng sang trọng là sung sướng, hạnh
phúc, còn nghèo cùng đói rách là hèn hạ?
Nhìn chung chúng ta thấy rằng,
tất cả mọi người trên địa cầu nầy, ai cũng chịu chung một số phận là khổ, cho
dù nghèo đói hay sang già. Nói như thế không có nghĩa chúng ta phủ nhận giá trị
của cuộc sống, và cõi đời nầy chỉ vỡ vụn đau thương mà không có lấy một sự an
lạc nào. Xin xác nhận có và đời vẫn đẹp. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã từng gặp,
từng chứng kiến sự an lạc hạnh phúc của kiếp người ít hơn là đau khổ đọa đày.
Cho nên đức Phật nói: Nước mắt đau khổ của chúng sanh còn nhiều hơn nước trong
bốn biển đại dương. Một hiền triết Tây Phương cũng có nói: Trên trái đất nầy
chẳng có gì hạnh phúc hoàn toàn, bởi vì thời gian của kiếp người sống ở đây,
không phải để hưởng thụ vui sướng, mà là để lãnh sự đau khổ. Trong Cung Oán
Ngâm khúc, Ôn Như Hầu tiên sinh cũng đã nói lên cái thân phận đau khổ của kiếp
người:
- Khóc vì nỗi thiết tha thế sự
Ai bày trò bãi bể nương dâu
Trắng răng đến thưở bạc đầu
Tử sinh kinh cụ làm nao mấy lần
Ðời người lắm nỗi tang thương,
nghìn vạn lần bị dồn dập. Qua biến cố ngày 30 tháng 4 năm 1975, chúng ta mới
thực sự chứng kiến cảnh đau khổ đắng cay của thân phận con người. Lắm người còn
sống đó linh hồn đã chết tự thưở nào, không trách gì kiếp người vừa sanh ra thì
đã kêu lên tiếng khổ a! khổ a! và cũng thực sự qua biến cố năm 1975, con người
mới thấy:
- Cuộc thành bại hầu cằn mái tóc
Lớp cùng thông như đốt buồn gan
Bệnh trần đòi đoạn tâm can
Lửa cơ đốt ruột dao hàn cắt da.
Và mới chúng kiến được cảnh:
Gót danh lợi bùn pha sắc xám
Bụi phong trần nắng nám mùi dâu
Nghĩ thân phù thế mà đau
Bọt trong bể khổ bèo đầu bến mê
Từ đó, mới dẫn đến sự đau khổ,
mới thấy thân phận con người là hạt cát, hạt trong cơn gió lốc của cuộc đời:
- Mùi tục lụy lưỡi tê tân khổ
Ðường thế đồ gót rõ khi khu
Sóng cồn cửa bể nhấp nhô
Chiếc thuyền bào ảnh lô xô gập ghềnh.
Thi sĩ Ðoàn Như Khuê cũng thường
đã nói:
- Bể khổ mêng mông sóng ngụt trời
Khách trần chèo một chiếc thuyền chơi
Kìa ai ngược gió ai xuôi gió
Nghoảnh lại cùng trong bể khổ thôi.
Bên cạnh cuộc đời, chúng ta cũng
thường thấy nhiều người nghèo túng rất thèm thuồng cái cảnh no cơm ấm áo, sung
sướng bên ngoài của hạng giàu sang như hai đứa trẻ mồ côi, đứng co ro trong một
góc tường đổ nát dưới trời đêm mưa lạnh:
- Gió nỗi lên chiều lạnh
Mưa gieo buồn khắp
Lá rơi vàng ngõ quạnh
Cay đắng lòng mồ côi
Trong góc tường ước át
Nhìn mưa tí tách rơi
Vai chị em kề sát
Gió lộng tóc tơi bời
Bên phòng học ấm êm
Giọng cô giáo êm đềm
Trong ánh đèn hớn hở
Xanh đỏ nhiều áo len
Em bé nhìn ngây thơ
Chị em mình bao giờ
Sướng vui như họ nhỉ
Êm ấm bên thầy cô
Ủ em trong đôi tay
Chị nghẹn ngào ước mơ
Một chiếc áo len dày
Ấm em giờ lạnh buốt.
Thật sự có êm ấm như ước mong
không, điều đó ai biết được? Tuy nhiên theo thói thường thì người ta dựa vào sự
ăn mặt phủ phê sang trọng, và nụ cười tươi thắm trên môi, là họ đánh giá nỗi
vui sướng, hạnh phúc của con người phú quý. Nhưng nếu ta chịu khó nhìn kỷ vào
thực tế trong cuộc sống, chúng ta sẽ thấy bề trái của cuộc đời, nó không đơn
giản như người ta thường tưởng, mà ngược lại bên trong còn có những ẩn tình rất
có thể làm tan nát cõi lòng, với những tiếng than thầm như cô Sắc Liên Hoa là một
cô kỹ nữ sống cùng thời với Ðức Phật.
Nguyên nhân đưa tới sự đau khổ
sầu muộn của kiếp người thì rất nhiều, nhưng chúng ta có thể quy những đau khổ
ấy vào hai điểm chính đó là: Vật Chất và Tinh Thần
PHƯƠNG DIỆN VẬT CHẤT
Trên đường mưu danh trục lợi, lăn
lóc với đời để sống, nhọc nhằn vật vã cả ngày lẫn đêm, sớm đi tối về, đầu tắt
mặt tối, đổ mồ hôi xót con mắt, nhằm thỏa mãn nhu cầu cho đời sống. Thế nhưng,
lòng ham muốn, sự nhu cầu của con người thì vô tận, cho nên ngày xưa bậc cổ đức
thường nói:
- Sớm chạy tây, rồi tối chạy đông
Lòng người ham muốn tỉ như ong
Trăm hoa hút nhụy về làm mật
Rốt cuộc thân tàn một kiếp không
Lúc còn trẻ thì ỷ tài lý của,
nhưng đến khi tuổi già sức yếu, bao nhiêu nhựa sống của tuổi thanh xuân rồi thì
cũng tiêu hao kiệt quệ, để nhường lại cho cảnh mỏi gối chùn chân. Lúc bây giờ
có hồi tưởng lại những quãng đời niên thiếu, cái tuổi đã từng oanh oanh liệt
liệt, để sống lại như tuổi đang xuân thì cũng không được. Bởi vì dòng thời gian
cứ luân lưu trôi chảy, và cảnh đời thì cứ luôn xê dịch, chớ có bao giờ dừng lại
để cho mọi người tận hưởng đâu?
Vật chất thiếu thốn thì cũng khổ,
nhưng chưa lấy làm khổ, vì nếu thiếu vật chất mà sinh ra khổ, thì những người
nghèo thiếu, cơm không đủ ăn áo không đủ ấm, những người sống lây lất đầu đường
xó chợ làm sao sống nỗi. Ðiển hình là hằng ngày chúng ta đã từng thấy biết bao
nhiêu người nghèo túng đói khổ, thế mà họ vẫn vui sống với gia đình họ. Nhất là
những thân bằng quyến thuộc của chúng ta hiện nay còn đang sống tại quê nhà,
thì sự đói khổ hiện nay làm sao nói hết, nhưng họ vẫn cứ an vui và vẫn cứ sống.
PHƯƠNG DIỆN TINH THẦN
Như trên cái khổ của vật chất
thực sự chưa đáng kể. Ở đây chúng tôi muốn nói cái khổ của tinh thần mới thực
sự là sâu sắc. Bởi vì như những người vướng vào cảnh thất tình lục dục, họ có
thể tự giết chết sinh mạng họ một cách dễ dàng. Thiếu cơm ăn aó mặt không có
mấy người tự tử. Những người thất vọng hoặc buồn rầu, họ thường tự tử bằng dao,
súng, thuốc độc..v..v..những sự kiện nầy thường xảy ra. Cho nên Ðức Phật dạy:
Ðời người có nhiều tiếng khóc hơn là tiếng cười là vì vậy.
Như đã nói ở trên, thật sự đây
không phải là trường hợp cố định, nhưng phần nhiều chúng ta thấy: Sự ăn mặt bề
ngoài lộng lẫy, đó chỉ là sự che đậy cho những sự không thật ở bên trong. Nhưng
phần lớn, mọi người chỉ nhìn màu sắc bên ngoài mà không nhận biết những ẩn khúc
ở bên trong, cho nên thường có những sai lầm đáng tiếc, rồi từ đó lại đâm ra ý
tưởng khinh đời, chưởi đời ngạo vật. Nhưng đời và tất cả những cảnh chung quanh
ta không có tội lổi gì cả. Có chăng đi nữa là do tâm của chính mình tạo ra mà
thôi.
Cho nên trong kinh Pháp Cú Ðức
Phật ngài thường dạy: Trong các Pháp tâm làm chủ, tâm dẫn đầu, tâm tạo tác tất
cả. Nếu chúng ta nói, thấy, nghe, hay làm với tâm chân chánh, thì phước báo sẽ
theo ta như bóng với hình. Ngược lại nếu ta nói, thấy nghe hay làm với tâm
không chân chánh, thì nghiệp báo sẽ theo ta như bánh xe lăn theo chân con vật.
* * *
Chúng ta là người con Phật, rõ
biết mọi sự mọi vật trên thế gian nầy tất cả đều là vô thường, và biết sống
cuộc sống tri túc, cho nên chúng ta cũng bớt đi sự lạ lùng bỡ ngỡ khi thấy dòng
thời gian cứ vô tình luân lưu trôi chảy, hết Xuân đến Hạ, hết Thu đến Ðông, cứ
như thế vận hành tiếp nối, và con người cũng như muôn sự vật đều bị giòng thời
gian vô tình chi phối cuốn phăng đi, không một mảy may nuối tiếc. Sự sinh sinh,
hoá hoá của con người, của vạn vật cũng theo đó mà đổi thay theo sự vận hành
của năm tháng, vì tất cả đều nằm trọn trong vô thường ấy.
Chúng ta phải cố gắng ý thức để
hiểu rõ Lý Vô Thường, có được như vậy chúng ta sẽ cảm thấy tự tại trước mọi
nghịch cảnh. Tuy nhiên đó vẫn còn nằm trong phạm vi lý thuyết. Thấy nghe thì
dễ, nhưng một khi đối diện trước hoàn cảnh, có mấy ai tự tại? Nhất là đối với
con người còn đam mê quay cuồng trong thất tình lục dục, thì vấn đề tự tại
trước nghịch cảnh, quả thật chúng ta ít thấy và hầu hết khi đứng trước sự đổi
thay, nhìn dòng thời gian sinh sinh, diệt diệt, họ đều khởi lên trạng thái lo
sợ, buồn rầu, cứ thế nung nấu mãi trong lòng, khiến cho tâm tư khô héo chết dần
chết mòn, và sợ hãi cho một tương lai, một ngày mai chưa biết ra sao.
Tuy nhiên, đối với con người học
Phật, nhất những vị thiền sư tu trì đạo hạnh, đạo cao đức trọng, thì sự thị phi
thành bại, các ngài đã có thái độ dửng dưng là chuyện thường, các ngài coi thời
gian qua rồi, ngày hôm nay hoặc ngày mai tất cả đều vô nghĩa. Bởi vì quá khứ
thì đã qua rồi, tương lai thì chưa tới, còn hiện tại thì thời gian cứ luân lưu
trôi chảy bất tận. Cho nên trên đường hành đạo, ngài Mãn Giác Thiền Sư đã hướng
dẫn môn đệ sao cho tinh thần luôn khang kiện, bình tâm trước mọi cảnh tượng đổi
dời như trong lúc cáo bệnh để dạy chúng như:
- Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Ðình tiền tạc dạ nhất chi mai
Tạm dịch:
- Xuân đã qua thời tiết đổi thay
Trăm hoa tàn úa rụng rơi đầy
Ðịnh luật tuần hoàn luân lưu mãi
Rồi lại xuân về trăm hoa khai
Kiếp người ngắn ngủi với thời gian
Trẻ đi già đến thật ngở ngàng
Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua mai nở trước hành lang.
Theo tinh thần nầy, là con người
biết đạo lý, đã và đang theo chân đấng từ phụ, học hỏi hạnh nguyện lành, để
tiến trên con đường giải thoát, thì đừng nên bi quan trước những đổi thay của
vạn vật. Bởi vì trong cái vô, vẫn còn có cái chân thường bất biến ẩn hiện đó
đây, mà Mãn Giác Thiền Sư là một vị cao Tăng đắc đạo đã thấy rõ điều đó. Ngài
thấy rõ sự vật trong vũ trụ đều là huyển tưởng không có gì là trường tồn vĩnh
cửu. Ngài nhìn thế sự chẳng khác như thời tiết muà Xuân, với trăm hoa đua nở
tươi thắm, lôi cuốn những ong bướm dập dìu, nhưng mùa Xuân qua rồi thì những
bông hoa đó cũng tàn úa héo rụng theo định luật của vô thường. Mùa xuân khác
đến, trăm hoa lại đua nở.
Kiếp người trong cõi diêm phù
cũng vậy, những lúc tuổi trẻ khí lục sung mãn, công việc hằng ngày hằng phút
trôi qua, mà con người đâu có mấy ai chịu khó lưu tâm, để rồi cái tuổi già với
những sợi tóc bạt, nó điểm trên đầu của mình lúc nào mà mình không hay biết.
Tuy nhiên, cũng tưởng rằng: Khi mùa xuân đi qua, thì tất cả những bông hoa đều
rơi rụng hết, thì là không còn bông hoa nữa. Chúng ta phải biết rằng, Xuân đến
thì trăm hoa của mùa Xuân thi nhau đua nở, Hạ đến thì chúng ta lại có những
hương sắc của mùa Hạ. Mùa Thu, Ðông cũng vậy. Nghĩa là định luật tuần hoàn vận
hành, bốn mùa tám tiết đổi thay, mùa nào cũng có bông hoa của mùa ấy xuất hiện
với muôn hương ngàn sắc. Bông của mùa Xuân, bông của mùa Hạ..v..v..đều có tên
khác nhau, nhưng tính bông là đem lại niềm vui tươi, mát dịu, điểm tô hương sắc
cho mọi người ngàn đời không thay đổi. Cho nên các Thiền Tổ nói trong cái vô
thường còn có cái thường hằng miên viễn.
Từ đây chúng ta không lạ gì khi
thấy giữa trời Ðông giá lạnh, cây cốI trụi lá trơ vơ, mà vẫn có thể có một cành
mai tươi thắm đang nở tỏa ngát hương thơm trước sân đình:
- Ðừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Ðêm qua mai nở trước hành lang.
Trước nhân cách sáng ngời của chư
Thiền Sư đắc đạo, siêu vượt ra ngoài sự chi phối của Vũ Trụ, đã ngầm chỉ rõ cho
chúng ta thấy, muốn đạt đến trạng thái tự tại, trước tiên chúng ta phải nhiếp
phục các căn, bởi vì đối tượng của các căn là sắc, âm thanh, hương
vị..v..v..Những thứ này đã áp đảo tinh thần của chúng ta, làm cho ta quên đi
niềm tự tín ban đầu, để rồi cuối cùng lôi cuốn ta chạy theo mộng tưởng điên
đảo. Là người Phật Tử, học và thực hành giáo Pháp của Phật Ðà, ta phải noi
gương những bậc Thiền Sư đi trước, để điều phục thân tâm. Phương thức hữu hiệu
nhất là chúng ta phải can trường nhìn thẳng vào thực thể của bản thân và ngoại
cảnh. Có được như vậy, chúng ta mới thấy rõ sự hiện hữu của chúng ta và sự vật
tất cả đều do nhân duyên hoà hợp. Nhưng điều cần nhớ là tất cả đều huyển hóa
chứ không có gì chắc thật. Chỉ có Chân Tâm của chính mình mới thực sự bất sanh
bất diệt, mà xưa nay chúng ta đã vô tình quên lãng.
Giờ đây chúng ta phải quả quyết
sống thực với nó, đừng để một tạp niệm nào xen vào. Bản chất của Tâm đối với
mọi sự mọi vật là như như bất động, thực tại không sinh không diệt, theo tinh
thần của Bát Nhã thì gọi Chân Không. Nếu đã là Chân Tâm, thì Cảnh cũng phải là
Chân Cảnh. Từ đây chúng ta không còn chạy trốn tìm cầu, mà giải thoát cũng trở
thành hiện thực. Từ ý nghĩa nầy, chúng ta thấy một khi tâm đã không bị giao
động, thì ngoại cảnh dẫu cho thế nào chăng nữa cũng trở thành vô ý nghĩa. Ðiều
nầy qua hình ảnh của Giác Hải Thiền Sư, ngài đã thản nhiên trước cảnh hoa bướm
rộn ràng khi Ðông tàn Xuân đến, làm cho chúng ta thấy rất là thi vị và thanh
thoát:
- Xuân lai hoa điệp thiện tri thi
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyển
Mạc tu khoa điệp vấn tâm trì
Nghĩa là:
- Bông hoa cánh bướm đón xuân sang
Bướm bướm hoa hoa khéo nhộn nhàng
Rằng bướm rằng hoa đều huyển cảnh
Ðừng vì hoa bướm động tâm vương.
Thật vậy bướm hoa, hoa bướm đều
huyển cảnh, khi hợp khi tan, cũng như hoa nở rồi tàn, trăng tròn rồi khuyết
theo định luật thời gian chi phối Hương Hải Thiền Sư cũng đã nói: Phàm người ta
phần nhiều vì sự mà ngăn chận cái lý, vì cảnh mà ngăn chận cái Tâm, muốn chạy
trốn cảnh mà tìm sự an tâm, quên Sự giữa Lý mà không biết rằng chính tâm của họ
ngăn chận cảnh, Lý của họ ngăn chận Sự. Nếu họ biết làm cho Tâm không, thì cảnh
tự nhiên cũng không, làm cho Lý lặng thì Sự tự nhiên cũng lặng.
Qua hình ảnh của Tiếu Ẩn Hân
Thiền sư, chúng ta cũng có thể tìm thấy một hình ảnh sáng rở, trong những hiện
tượng Diệu Lý Bất Sanh Bất Diệt nằm gọn trong cảnh vật sôi động Sinh Diệt:
- Kim cương chính thể hiện rõ ràng
Cảnh vật muôn ngàn bát nhã quang
Bặt lối lại qua đương niệm thoát
Âm dương đất trống lý toàn bày
Gáy sáng gà cây trong nẻo vắng
Mừng xuân gái đá ra động phòng
Ðáy hồ rồng vẩy vui vô hạn
Ðưa tiển chúa xuân một lò trầm.
Trong muôn vàn cảnh vật đã sẳn
chứa thể Kim Cương Bát Nhã. Như vậy chỉ cần dứt sạch vong tưởng điên đảo thì
chân tánh tự nhiên hiển hiện. Ðể đạt tới mục đích nầy, người con phật phải làm
sao đạt tới trạng thái Vô Tâm. Vô Tâm thì phiền não không chổ nương tựa. Vô Tâm
theo Hương Hải Thiền Sư là bí quyết của sự Giác Ngộ. Phương thức để đạt tới
trang thái Vô Tâm, theo Việt Nam Phật Giáo Sử Luận của Nguyễn Lang nói rằng:
Giới Luật cao nhất chính là Vô Tâm. Cũng theo Phật Giáo Sử Luận nói: Giới Luật
ở đây không có nghĩa là cấm đoán, không cho con người va chạm tiếp xúc với sự
vật. Nếu Giới Luật chỉ là sự cấm đoán ấy thì đó chưa phải là phương thức căn
bản mà là sự chạy trốn, tự đưa mình vào ngõ cụt. Giới Luật cao nhất là sự quan
sát thường trực để từ đây dầu cho ta trong môi trường nào chăng nữa, cũng không
bị Thanh Sắc chi phối, mà trái lại Thanh Sắc phải phục tùng theo mình.
Theo tinh thần của Lục Tổ Huệ Năng: Khi mê thì
Thầy độ, khi ngộ thì tự độ lấy. Ở đây chúng ta có thể hiểu: Khi mê thì người đi
theo cảnh, mà cảnh thì thiên sai vạn biệt, còn người thì không đồng nhất với
mình. Khi Ngộ thì Cảnh đi theo Người, Người thì đã nhất trí và dung hoá được,
cho nên Hương Hải Thiền Sư nói: Giới Luật của tự tín, là giữ thái độ Vô Tâm đối
với Vạn Pháp. Trí Tuệ của tự tính là giữ thái độ vô ngại đối với Vạn Pháp. Tâm
ta vững chải không thêm không bớt như Kim Cương bất hoại, thì dù cho thân ta
tuy có đi tới đi lui nhưng vẫn cứ an trí trong cảnh đại định như thường:
- Nhứt thiết Vô Tâm tự tánh giới
Nhứt thiết vô ngại tự tánh huệ
Bất tăng bất giảm tự Kim Cuơng
Thân khứ thân lai bản Tam Muội.
Cũng cần nói rõ thêm, Vô Tâm
không phải là sự hửng hờ thiếu chú ý. Vô Tâm ở đây là muốn nói cái thấy sáng
suốt không bị mắt kẹt bởi Tư Kiến và Tư Dục, không kỳ thị phân biệt, cái thấy
không còn cái khuynh hướng nhị nguyên điều khiển. Ðối với cái thấy ấy không còn
phân biệt Chủ Thể và Ðối Tượng, Tâm và Cảnh, Mê và Ngộ, Có và Không, Lý và Sự.
Can đảm nhìn thẳng vào tự tính của Tâm, thì Vô Tâm ấy bất cứ ngày giờ giây phút
nào cũng là giây phút Giác Ngộ, và ở nơi nào cũng cảm thấy tự tại, và bất cứ
đối tượng nào cũng là Phật. Khi sự phân biệt chủ thể đối tượng đã chấm dứt, và
ý niệm chấm dứt ấy cũng chấm dứt, thì lúc bấy giờ trí tuệ có mặt. Một khi trí
tuệ chân chính đã có mặt thì tâm niệm nào cũng là Tâm Niệm Phật, và ở đâu cũng
thành đạo, không có nơi nào mà không phải là cõi Phật. Muốn thực hiện được cái
trí Bát Nhã kia, phương pháp hữu hiệu nhất là sống một cuộc sống hằng ngày với
sự tỉnh thức tự tâm:
- Phản văn tự kỷ mỗi thường quang
Thẩm sát tư duy tự tế khan
Mạc giáo mộng trung tầm tri thức
Ðương lai điện thượng độ sư nhan.
Dịch là:
- Xét lại điều gì thấy mỗi ngày
Suy đi nghĩ lại kỷ càng hay
Ðừng tìm tri thức trong cơn mộng
Như thế mới hay gặp được thầy.
Và ngài Lâm Tế thị chúng cũng cho
ta thấy: Ðạo của Phật Pháp là chỗ vô công dụng địa. Tất cả những động tác bình
thường trong cuộc sống hằng ngày như: Cơm ăn, áo mặt..v..v..đều là thiền. Người
ngu sẽ cười ta, nhưng kẻ trí sẽ ngộ.
Thức được tự tâm là yếu tố để ta
tiến tới trí tuệ siêu việt, mà trí tuệ siêu việt là yếu tố giác ngộ. Nó là trực
giác nhìn vào chân lý cứu cánh của Vạn Hữu, nhờ đó mà thoát ra ngoài triền
phược của hiện hữu và trở thành tự chủ. Bởi vì theo tinh thần của Phật giáo:
Bắt đầu bằng sự Giác Ngộ, và tận cùng cũng bằng sự giác ngộ, nên trên đường đi
phải kiên trì Vô Tâm, và phải lót bằng tâm nguyện Ðại Từ, Ðại Bi, Ðại Trí, Ðại
Dũng của chư Phật, chư Bồ Tát, chư Tổ Sư quên mình. Chính vì hạnh nguyện đó mà
mặc dầu các ngài đã bước sang bên kia bờ tịch diệt, nhưng không bao giờ ẩn mình
trong cái tịch diệt ấy, mà tâm nguyện của các ngài là phải mang trí tuệ siêu
việt ấy lên đường, mở rộng tình thương vô hạn, bao gồm cả vũ trụ, để gieo rắt cho
nhân thế những trận mưa Pháp, với muôn ngàn sắc tướng, để cho nhân thế Ngộ Nhập
Phật Tri Kiến.
Người viết bài nầy với ước mong
duy nhất là: Chúng ta đang sống cuộc đời ly hương với muôn vạn tang thương, đổ
vỡ, nhưng vẫn còn có cái may mắn chúng ta là người con Phật, được nuôi dưỡng và
trưởng thành bằng chất liệu Giáo Pháp ngọt ngào của Phật Ðà. Cho nên dù trong
cảnh ngộ như thế nào đi nữa, cũng đừng nên bi quan trước những đổi thay thường
tình, mà chúng ta phải noi theo con đường của chư Phật, chư Tổ đã và đang đi.
Cứ thế mà tiếp tục tinh thần ấy để tự hướng dẫn chính chúng ta, giúp chúng ta
chuyển hóa đời mình trở về với trạng thái Tự Tại Vô Tâm. Cố gắng thực hiện được
như vậy, là chính quý vị đã tự đem tới cho chính mình những nụ hoa: Thanh Tịnh
Từ Bi, Hỷ Xã, Trí Tuệ để tự trang điểm cho chính mình một Mùa Xuân Trường Tồn
Miên Viễn.
- Xuân lại đến với mọi người tất cả
Xuân lại cho ta thêm một tuổi đời
Xuân lại về với tất cả đầy vơi
Nhưng ý nghĩa nhất mùa xuân miên viễn.
Nhất Quán-Phương Trời Viễn Xứ