Nietzsche, triết gia người Đức,
triết học của ông có nhiều ảnh hưởng trong xã hội Tây phương trong các thập
niên giữa thế kỷ 19, ông có nói: “Cuộc sống chỉ giá trị khi nó là công cụ cho
nhận thức, cho sự hiểu biết”. Chúng ta đang hiện hữu trong thân xác thật mong
manh, xô đẩy bởi ngọn gió vô thưởng về chốn vô định nơi cõi thiên thu. Nên
chăng hiểu biết về khoa học hiện đại, về công nghệ cao về thị trường chứng
khoán, về kinh tế toàn cầu.v.v. Tất cả đều tốt, đều giúp cho con người có thêm
uy lực, quyền năng đối với thế giới vật chất, tô điểm thêm sắc màu lấp lánh
chốn phù hoa, hoặc ru ngủ bằng những cảm xúc phù vân – nhưng chắc chắn không
khác vị ngọt của giọt mật dính trên đầu ngọn dáo và càng không thể soi sáng cái
thân phận làm người, về kiếp sống nhân sinh và đem lại bình an cho tâm hồn.
Đôi khi trong những khoảnh khắc
lắng đọng của trạng thái trầm tư, ta có cảm giác rằng dòng chảy ý thức không
khác mấy so với cảm giác trong dòng chảy vận động của vật chất – vậy liệu bản thân
tư duy có thể không phải là một bộ phận của thực tại chăng? hay nội dung của tư
duy phải chăng cho chúng ta một phóng ảnh trừu tượng và đơn giản hoá của thực
tại. Bởi vì từ rất lâu với tập quán tin tưởng có một thế giới khách
quan hiện hữu bên ngoài ta dẫu ta có nhìn nó hay không. Rồi
cái cảm giác hiện hữu khách quan đó được mở rộng ra cho phẩm tính sự vật. Từ đó
ta luôn luôn cho rằng cái gì ta kinh nghiệm qua giác quan hay tưởng đã kinh
nghiệm trong quá khứ đều là thật, dẫn
đến hành xử khi muốn biết rõ sự vật thì cứ tìm phẩm tính hay thể tính của nó mà
ta cứ tưởng ở bên ngoài. Và làm thế nào ta có thể nắm bắt được sự vận động của
thực tại trong ý nghĩa toàn thể của nó.v.v. đó là câu hỏi thật sâu sắc của kiếp
nhân sinh.
Một ý niệm hầu như phổ biến ở
phương Tây và cũng quan điểm như thế tràn ngập trong thực tế cuộc sống hàng
ngày mỗi khi con người nhận thức hay khi cái “tôi tư duy” về nguyên tắc là tách
rời và độc lập với thực tại, đã thấm sâu vào truyền thống từ vô thuỷ của chúng
ta. Sự nhạy cảm của tri giác và tư duy đòi hỏi ý thức về kinh nghiệm được hình
thành như thế nào trong chúng ta về thực tại, thực tại này ẩn tàng hay hiển lộ
trong những cách thức suy nghĩ tổng quát của chung ta. Chúng ta gọi quá trình
này là tri thức – kinh nghiệm.
Dưới góc độ thế giới hiện tượng,
lý thuyết tổng quát của vật lý học đóng vai trò quan trọng hơn cả vì chính nó
đề cập đến bản chất phổ quát của vật chất tạo nên vũ trụ vạn vật, của không thời gian và thế giới
quanh ta. Để có thể quan sát một cách như thật, phải chọn một chỗ đứng thích
hợp và đứng để nhìn từ đâu? Thực tại trình hiện dưới mắt con người như là hai
thế giới khác biệt từ hai vị trí nhận thức khác nhau: tương đối và tuyệt đối.
*
* *
Trong vị trí tương đối, mỗi sự
hữu tồn tại trong quan hệ với cái khác nó, hàm chứa mâu thuẩn chính nó và những
gì không phải của nó. Con mắt chỉ nhận thức những gì là sắc, năm thức chỉ phát
huy trong không gian hình học và thời gian tuyến tính trôi theo chiều nhân quả.
Trí não con người được xem là ranh giới cuối cùng có ảnh hưởng rất lớn đến nhận
thức và cách thức suy nghĩ của chúng ta ảnh hưởng đến thế giới xung quanh hay
một nơi xa xăm nào đó.
Suy nghĩ của chúng ta không dừng
ở thể hiện mà còn tạo ra được vật chất. Chúng ta càng hiểu rõ về trí não – phần
vật chất của trí tuệ bao nhiêu thì trí tuệ càng có khả năng hoạt động như một
cứ điểm truyền đi và tiếp nhận tự nhiên, đọc và mã hoá thông tin giữa cơ thể và
thế giới bên ngoài.
Trong quá khứ phạm vi giải thích
khoa học đã dựa vào thông tin cung cấp những gì mà năm giác quan thực sự nhìn
thấy và nắm bắt được. Bản thân vũ trụ và cuộc sống được nghiên cứu tỉ mỉ thông
qua luật tắc vật chất hữu hình và chi phối bởi nguyên lý nhân quả của Newton . Nhưng dù nền vật
lý Newton tỏ ra
rất hữu ích trong nhiều loại kinh nghiệm của khoa học, khoa học cũng chỉ là một
phần nào đó của nhận thức.
Cách đây không lâu, trường Y khoa
thuộc Đại học Harvard đã thực hiện một thí nghiệm: chia 2 nhóm mèo mới sinh ra
sống trong 2 khu vực, một khu vực sơn bằng các vạch kẻ ngang để làm tác nhân
kích thích thị giác trong một môi trường của chúng đều nằm ngang, nhóm còn lại
sống trong khu vực gồm các vạch gạch thẳng đứng. Khi những con mèo lớn lên già
cỗi đã trở nên khôn ngoan, nhưng lúc đó những con mèo trong thí nghiệm cứ đi lại vướng víu trong bước dịch chuyển vì
chỉ thấy thế giới nằm ngang hoặc thằng đứng. Sau đó người ta nghiên cứu trí não
của chúng thì phát hiện rằng không có sự liên kết não giữa thần kinh của chúng
với thế giới nằm ngang hay thế giới thẳng đứng.
Vậy các nhà khoa học đã nói gì?
Họ gọi hiện tượng đó là “sự cam kết nhận thức sớm” có nghĩa là sự trải nghiệm
giác quan ban đầu và cách thức mà chúng nhận thức ngay từ những ngày mới sinh
ra khi thị lực đang phát triển đã thật sự hình thành sự phân tích hệ thần kinh
của chúng. Rốt cuộc chúng chỉ nhận biết những gì người ta đã tạo ra chúng.
Đối với con người cũng vậy, các
nhà khoa học cho rằng, chúng ta đang hiện hữu với hệ thần kinh đang sử dụng sẽ
tiếp nhận dưới một phần tỷ của các tác nhân kích thước hiện hữu, các tác nhân
kích thích này là tác nhân tăng cường sự vận động ý tưởng, cách hiểu của chúng
ta về những gì mà chúng ta cho là tồn tại bên ngoài. Hệ thần kinh mà chúng ta
đang sử dụng chính tạo ra sự quan sát. Hệ thần kinh con người chỉ tiếp nhận bước
sóng ánh sáng trong khoảng 400 đến 750 nanomet và như vậy sự lý giải cho những
quan sát hạn chế này đã tạo nên một khuôn khổ hạn định mà chúng ta đồng thuận.
Nói đúng ra, nó là phương pháp khám phá trong khung khái niệm hiện tại của
chúng ta về những gì chúng ta cho là thực tại. Thực tại mà ta khám phá rõ ràng
có chức năng như là đồ thị mà con người vẽ ra trong quá trình nhận thức và tất
yếu khi khung khái niệm đó, đồ thị đó thay đổi thì mọi sự đối với chủng ta cũng
thay đổi, theo một ý nghĩa tích cực. Vậy thì hình dạng thực sự của thế giới là
gì? Cấu tạo thực sự của thế giới là gì?
Nhà khoa học về thần kinh nổi tiếng John
Eccles đã nói: “Tôi muốn các bạn biết không có màu sắc trong thế giới thực,
không có mùi hương trong thế giới thực, không có sắc đẹp và cũng không có sự
xấu xí. Vượt ra khỏi những hệ thống cảm giác là sự mơ hồ thất thường về dòng
lượng tử trôi chảy liên tục. Chúng giống như thầy phù thuỷ trong mỗi hành vi
của sự nhận thức, chúng ta nắm lấy dòng lượng tử đó và biến nó thành trải nghiệm
thực tế vật chất trong trạng thái, nhận thức tỉnh táo thường ngày của chúng
ta“.
Rốt cuộc lại, các giác quan của
chúng ta được xem là mang lại cho chúng ta một bức tranh đứng đắn về thế giới
mà chúng ta xây dựng nên khoa học dựa trên sự giải thích duy vật về thực tế –
nhưng chúng ta biết không phải như thế. Giác quan nói với chúng ta rằng trái
đất là bằng phẳng, mặt đất dưới chân chúng ta là không chuyển động, đâu phải
thế.
Nhà vật lý lý thuyết Hawking nổi
tiếng thế giới thuộc Đại học Cambridge, có đề cập đến một câu chuyện tại thành
phố Monza nước Ý, chuyển kể rằng:
“Hội đồng thành phố đã lệnh cấm
các chủ vật nuôi, không được nuôi cá vàng trong các bình cong”. Lệnh cấm đó
giải thích rằng: Sẽ là tàn nhẫn nếu giữ cá vàng trong bình có thành cong thì cá
sẽ có cái nhìn méo mó về thực tại khi nhìn ra bên ngoài”. Nhưng làm thế nào
chúng ta biết là bản thân chúng ta có một hình ảnh chân thực không bị biến dạng
về thực tại?.
Lịch sử phát triển khoa học, đúng
hơn là khoa học vật lý đã tự nói lên nội dung hàm ẩn “bức tranh con cá vàng”.
Từ rất lâu, người ta có niềm tin vào mô hình vũ trụ của Ptolemy: trái đất đứng
yên ở giữa, các hành tinh và các vì sao chuyển động xung quanh theo quỹ đạo
phức tạp. Mô hình này được Nhà thờ Cơ đốc giáo chấp nhận như là một học thuyết
cho đến tận những năm 1400. Mãi đến năm 1954 một mô hình mới của Copernicus
được công bố mô tả vũ trụ trong đó Mặt trời là đứng yên và các hành tinh chuyển
động theo các quỹ đạo tròn quanh nó. Mô hình được Galileo cỗ vũ mạnh mẽ, đương
nhiên là trái với Kinh Thánh và kết quả là ông bị buộc tội, mãi đến năm 1992,
nhà thờ Cơ đốc giáo La Mã thừa nhận họ kết án Galileo là sai.
Theo Hawking, chúng ta chấp nhận
một quan niệm gọi là thực tại, thực tại đó phụ thuộc mô hình (có thể lý thuyết
vật lý, một bức tranh thế giới), nói chung có bản chất toán học và một số các
qui tắc liên kết các yếu tố của mô hình đối với quan sát. Mô hình này cung cấp
được một khuôn khổ nhờ nó ta diễn giải khoa học hiện đại. Như vậy sẽ không có
một lý thuyết, một quan niệm độc lập về thực tại.
Theo cách nhìn đó, trong khoảng
gần 19 thế kỷ của tư tưởng khoa học thì kinh nghiệm thông thường và trực giác
là nền tảng cho việc giải thích và kiểm nghiệm lý thuyết. Các lý thuyết cổ điển
như lý thuyết Newton
được xây dựng dựa trên khuôn mẫu phản ánh kinh nghiệm thường ngày. Khi hoàn
thiện thêm công nghệ và đối tượng quan sát được mở rộng thêm, con người đã phát
hiện thêm cái bí ẩn, và tự nhiên đã hành xử theo các thức ngày càng xa lạ đối
với kinh nghiệm hàng ngày. Và các nhà khoa học nhận ra rằng lý thuyết Newton không còn thích hợp
để mô tả thế giới tự nhiên ở mức độ vi mô. Vật lý lượng tử khi ra đời đã đưa ra một khuôn mẫu để tìm
hiểu tự nhiên vận hành ở thang nguyên tử và dưới nguyên tử. Rõ ràng khuôn khổ
này rất xa lạ với trải nghiệm hằng ngày của
chúng ta, liệu có thích hợp với việc giải thích theo kinh nghiệm thông
thường như vật lý cổ điển đã làm hay không?
Theo Hawking thì vẫn tốt, bởi vì
chúng ta và vũ trụ được cấu trúc bởi vô lượng nguyên tử như nhau. Dù các nguyên
tử thành phần trong cấu trúc vẫn phải tuân theo các định luật trong vật lý
lượng tử, nhưng tập hợp lớn các nguyên tử trong các vật thường ngày dường như
hành xử khác với thành phần đơn lẻ, và tập hợp lớn cấu thành nên thế giới hàng
ngày vẫn tuân theo định luật Newton.
Mô hình lượng tử về thế giới tự
nhiên chứa đựng một số nguyên lý xem ra trái với kinh nghiệm hàng ngày qua giác
quan, kể cả quan niệm trực giác về thực tại của chúng ta. Phải chăng nó là sản
phẩm kỳ lạ xuất sinh từ trí óc những người ưu tú. Nhà vật lý Mỹ kiệt xuất sau
Einstein là Richard Feynman đã phát biểu “Tôi nghĩ tôi có thể nói không sai
rằng chẳng có ai hiểu được cơ học lượng tử cả” . Tuy vậy, vật lý lượng tử đã tỏ
ra phù hợp với quan sát và chưa một lần thất bại trước một lần kiểm chứng nào
(theo Hawking), Feynman nói vậy chứ thật ra ông đã hiểu sâu sắc đến độ kinh
ngạc (từ dùng của Hawking) về sự khác nhau giữa mô hình lượng tử và khuôn khổ
vật lý Newton.
Ta thử hình dung một thí dụ đơn
giản để hiểu quan niệm về thực tại lượng tử của Feynman: một hạt phát xuất từ
A, chuyển động một cách tự do: trong vật lý Newton, hạt sẽ chuyển động theo một
đường thẳng và sau một thời gian trôi qua tìm thấy nó ở vị trí B. Trong mô hình
lượng tử Feynman, hạt sẽ đi theo mọi quỹ đạo nối A và B, mỗi quỹ đạo mang một
dấu ấn pha, cái pha gắn với quỹ đạo phụ thuộc hằng số Planck, biểu thị vị trí
trong chu kỳ sóng: tức sóng đang ở hình trạng đỉnh hay hỏm hoặc tại một vị trí
trung gian – theo Feynman lúc lấy tổng các sóng từ các quỹ đạo khác nhau thì
nhận được biên độ xác suất cho hạt đi từ A đến B và bình phương biên độ cho
biết xác suất hạt đến B. Feynman khẳng định chính điều này làm nên sự khác nhau
giữa mô hình lượng tử và mô hình Newton. Phương pháp lấy tổng các sóng gọi là
“lấy tổng theo các lịch sử khả dỉ“.
Trong những thập niên 30 – 40 thế
kỷ 20, các nhà vật lý ưu tú Paul Dirac, Wolfgang Pauli.v.v. kể cả Feynman đã nỗ
lực miệt mài để tìm ra một bức tranh đầy đủ và một hình thức luận để mô tả thế
giới vi mô, họ phát hiện một yếu tố cơ bản của vật lý mà Schrodinger đã bỏ qua trong
hình luận cơ học lượng tử của ông là thuyết tương đối hẹp mà theo các nhà vật
lý nó phải đóng một vai trò trung tâm. Vì bỏ qua thuyết tương đối hẹp mà
Schrodinger đã bỏ qua khả năng biến đổi qua lại giữa năng lượng, vật chất và
chuyển động. Từ những ý tưởng đó đã thấy xuất hiện nhiều thành quả đầy cảm
hứng, các nhà vật lý ưu tú đã tiếp cận đến một khám phá mới, họ đã cho ra đời
lý thuyết “điện động học lượng tử” sáp nhập đầy đủ các nguyên lý lượng tử với
khái niệm vật lý cổ điển trường điện từ Maxwell cùng với nền tảng lý thuyết
tương đối hẹp bao hàm trong nó. Sau đó các nhà vật lý xây dựng thành công lý
thuyết “động lực học lượng tử của tương tác mạnh” và lý thuyết “điện – yếu
lượng tử”. Cả 3 lý thuyết gọi chung là “lý thuyết trường lượng tử”.
Như vậy, trong thập niên 70 của
thế kỷ 20 lý thuyết đã mô tả lượng tử thoả đáng 3 trong 4 lực chi phối tự nhiên
là mạnh, yếu, điện từ và trong suốt 2 thập kỷ qua rất nhiều thực nghiệm đã tiến
hành kiểm tra và chứng minh được rằng lý thuyết này đã vượt qua một cách vẻ
vang.
Vẫn còn đó, lý thuyết lượng tử
của lực trong tự nhiên, đó là lực hấp dẫn thì vẫn còn độc hành trong sâu thẳm tri thức nhân loại.
Cho đến hiện nay có thể nói là chưa có ai thành công? ý kiến chung của nhà vật
lý về vấn đề này đại thể là: phạm vi áp dụng của lý thuyết tương đối rộng ở
thang khoảng cách thiên văn – theo Einstein, ở những khoảng cách xa như vậy khi
không có khối lượng thì không gian là phẳng, vì trường hấp được phản ánh bởi độ
cong của không – thời gian.
Theo ý kiến của những nhà khoa
học, thì ở cấp độ vi mô của không gian, mọi thứ kể cả trường hấp dẫn đều phải
chịu những thăng giáng lượng tử cố hữu do nguyên lý bất định và sự thăng giáng
này càng lớn của trường hấp dẫn khi vùng không gian càng nhỏ, và làm cho không
gian uốn cong ghê gớm đến nỗi không còn giống một chút nào với một đối tượng
hình học. Chính ở khoảng cách cực ngắn này đã xảy ra sự không tương thích giữa
thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử. Khái niệm hình học trơn tru – nguyên
lý trung tâm của thuyết tương đối rộng đã bị sự thăng giáng lượng tử ở những
thang khoảng cách cực ngắn phá huỷ.
Như vậy sự hiểu biết về lý thuyết
vũ trụ của chúng ta lại qui về sự chắp vá không phù hợp với nhau về mặt toán
học của hai lý thuyết rất có sức mạnh lại tỏ ra xung đột, điều này diễn ra cho
đến khi ra đời lý thuyết dây.
Theo lý thuyết dây, các thành
phần của vũ trụ không phải là các hạt điểm mà chúng là các sợi dây rất nhỏ, là
những thành phần siêu vi mô tạo nên các hạt cấu thành của nguyên tử, có nghĩa
là những thành tố cơ bản của vạn vật. Lý thuyết dây đã giải quyết được sự xung
đột giữa thuyết tương đối rộng và cơ học lượng tử.
Hơn nữa toàn bộ vật chất và tất
cả các lực được xem là nảy sinh từ thành tố cơ bản, đó là các dây dao động. Tuy
nhiên theo lý thuyết dây, nó lại đòi hỏi số chiều không gian là 9 và một chiều
thời gian, trong đó có 3 chiều không gian (và một chiều thời gian) lại lớn có
quảng tính rộng, các chiều khác rất nhỏ và cuộn lại hay uốn cong ở qui mô ta
không nhìn thấy được. Hawking đặt tên cho các chiều đó là chiều dư tạo nên một
không gian nội tại trái ngược với không gian 3 chiều trong cuộc sống thường
ngày. Để hình dung chiều nhỏ và uốn cong, ta quan sát một con kiến bò bên thành
trong một ống nước, nó chỉ đi lại theo bề dọc ống và một chiều theo chu vi.
Chiều theo chu vi thì ngắn “bị cuộn lại” khó nhận thấy và nó trở nên quá nhỏ
nếu ống nước có đường quá nhỏ. Đó là ý tưởng của nhà Toán học Balan tên Kaluza
và sau đó được hoàn thiện bởi nhà Toán học Thuỵ Điển là O-Klein vào năm 1926.
Càng rối răm hơn nữa có ít nhất 5
lý thuyết khác nhau và hàng vạn cách cuộn lại của chiều dư. Các nhà lý thuyết
dây tin rằng các lý thuyết đó chỉ là những lý thuyết gần đúng của một lý thuyết
cơ bản hơn, gọi là “Lý thuyết – M” có khả năng bao quát tất cả và có thể là một
lý thuyết về tất cả mà con người đã tìm kiếm từ rất lâu. Lý thuyết – M có 2 đặc
điểm cơ bản: gồm có 11 chiều (10 chiều không gian và 1 thời gian); kể đến ngoài
sự dao động của dây, nó còn bao hàm những đối tượng khác như màng 2 chiều dao
động, màng 3 chiều dao động và nhiều đối tượng khác nữa. Bản chất thực của lý
thuyết – M vẫn còn là điều bí ẩn, và các nhà vật lý trên khắp thế giới đang làm
việc hăng say để có một sự hiểu biết đầy đủ.
Ai có thể biết được điều gì ở
phía trước, như Einstein đã nói: “Điều khó hiểu nhất về vũ trụ là khả năng hiểu
được nó của chúng ta“. Các nhà khoa học cho rằng ngay khi có được hiểu biết
chính xác về lý thuyết dây – tiền thân lý thuyết – M dựa trên một khuôn mẫu
tiến bộ, sáng sủa hơn so với lý thuyết lượng tử thì họ cũng phải nhờ đến phép
đo thực nghiệm các khối lượng hạt và cường độ các lực chứ không tính được bằng
lý thuyết. Chúng ta đáng vấp phải giới hạn tuyệt đối của sự giải thích khoa
học. Ai có thể ngờ được rằng quan điểm quá ư trực giác, cơ học và chính xác của
lý thuyết Newton lại hoá ra chỉ có ý nghĩa rất “địa phương” và rằng còn có cả
một thế giới mới mẻ nằm sâu dưới bề mặt của những thứ mà chúng ta giao tiếp và
trải nghiệm hàng ngày?
Nhờ vào những nghiên cứu về lý
thuyết – M, con người biết được một ý niệm đại thể về một cảnh giới mới lạ và
rất lạ, ẩn dưới chiều dài Planck (chiều dài cực ngắn 10 luỹ thừa (-33)cm), một
cảnh giới trong đó không có các khái niệm không gian và thời gian và vũ trụ của
chúng ta đang sống chỉ là một trong vô số những bọt sóng trên bề mặt cũng đại
dương vũ trụ bao la và sôi động có tên là đa vũ trụ. Hiện nay, ý tưởng này chỉ
thuần tuý là tư biện, vấn đề còn ở phía trước của các nhà khoa học ưu tú.
*
* *
Theo các luận sư Phật học, 2 trụ
cột chống đỡ ngôi lâu đài đồ sộ tư tưởng của Phật giáo là giáo lý vô ngã và
giáo lý duyên khởi, vì vậy tư tưởng vô ngã cùng với tư tưởng về duyên khởi rất
không dễ hiểu.
- Thành trì ngã chấp (tin vào cái
ta có thật và trường cửu) được tập trung vào 4 phạm trù ý tưởng chính về cái
ta, đó là Ngã, Nhân, Thọ giả và chúng sinh: Ngã có thể xem là chủ thể đối đãi
với thế giới bên ngoài và tâm lý bên trong – Nhân là cái ta cá thể bất biến
trường tồn và tái sinh liên tục – Thọ giả có thể hiểu là cái ta theo nghĩa đoạn
diệt theo dòng chảy thời gian – Chúng sinh là cái ta có đời sống, có tình cảm
đối diện với thế giới bên ngoài ta.
Các quan niệm sai lầm nầy Phật
giáo gọi là vọng tưởng, và nó là thủ phạm trói chặt con người vào luân hồi của
kiếp người. Vì vậy, Phật giáo chủ trương vô ngã như là một cơ sở nhận thức quan
trọng để tháo gỡ con người ra khỏi vòng luân hồi. Vô ngã không phủ định cái ta
đang hiện hữu, nhưng xác định không phải là một chủ thể thường hằng mà do sự
kết tập của vô số các nhân duyên biến chuyển không ngừng.
· Nhân là cái ta có thể nhìn từ
bên ngoài, cũng còn gọi là cá nhân. Cá nhân này giả hữu vì nó chỉ tồn tại nếu
không có các yếu tố, các điều kiện “phi nhân” cùng tồn tại.
· Thọ giả có ý nghĩa rằng ta có
sinh ra và có chết đi. Thời gian này là sống, thời gian sau là chết. Khoảng
thời gian sống là thọ mạng. Phật học thì cho rằng sinh diệt là một. Có diệt vì
có sinh, nhưng chưa từng sinh thì có gì để diệt. Khoa học y đã xác nhận, các tế
bào trong người sinh diệt liên tục và luôn luôn tái sinh trong từng hơi thở.
· Chúng sinh còn gọi là hữu tình
do ngũ ấm kết hợp lại. Thực ra nó chỉ là một dạng khác của ngã nên không thể
tồn tại độc lập ngoài thế giới vô tình. Quan niệm này, nêu lên rằng sự sống là
cả một thế giới cọng sinh của tất cả thế giới hữu tình lẫn vô tình.
- Theo tư tưởng duyên khởi thì
tất cả các pháp (mọi sự vật và tư tưởng) hiện hữu là do mương tựa vào nhau mà
có. Bản chất của vạn vật đều mang ý nghĩa Không, đây là lý luận của giáo lý
Tính Không. Không ở đây, không có nghĩa là không hiện hữu mà là không có tự
tính.
Nói một cách đại thể, Phật giáo
quan niệm thực tại không ngừng biến chuyển một cách tương tục bất đoạn trên
dòng chảy thời gian. Như vậy thực tại là quá trình thể nghiệm, cái đang là
chính là quá trình để trở thành chính nó. Quá trình được mô phỏng với dòng chảy
trôi chảy mà trên bề mặt nó nổi lên những mẩu hình xoáy nước, những gợn sóng
luôn luôn thay hình đổi dạng.
Theo các luận sư Phật học, mục
đích của vũ trụ học là tìm hiểu nguyên lý chân không vô ngại và nguyên lý hữu
hoá duyên sinh của vạn pháp. Luận đại thừa khởi tín được xem là tiêu biểu trong
quá trình triển khai Như Lai tạng, phô diễn tư tưởng chủ đạo niềm tin về một
thực tại cứu cánh châu biến hàm dung bao trùm cả pháp thế gian, lẫn xuất thế
gian. Theo ngôn ngữ thế gian đó là “Tâm chúng sinh” hay “Nhất tâm”, Khế Kinh có
viết: “Không có một pháp chẳng từ Tâm này mà lưu xuất và không có một pháp nào
chẳng trở về Tâm này”.
Tâm chúng sinh có 2 tướng: một là
thể tính chân tâm thanh tịnh hay tướng Chân như – hai là tướng nhân duyên sinh
diệt đặc trưng chung cho thể – tướng – dụng của chân vọng hoà hợp. Cho nên có 2
cách nhìn: nhìn từ phía Chân như thì tuy thanh tịnh bất biến mà vẫn sanh diệt
tuỳ duyên, nhìn từ phía sinh diệt thì tuỳ duyên sai biệt mà vẫn như bất biến.
Chân như là tổng thể của Nhất tâm
(Tâm chúng sinh) là tính không sinh diệt và bao trùm tất cả thánh, phàm, nhân
quả, chánh báo và y báo.v.v. Chân như là nhân, là giống, là bản năng của tất cả
các pháp nên còn gọi là “Nhất pháp giới” và nhất pháp giới là toàn tính của vũ
trụ, là pháp thân thường trụ, là sở y thường hằng bất biến làm nơi nương tựa
cho chúng sinh, là nguyên lý xuất sinh mọi hiện tượng. Như vậy, thực tại được
nhìn nhận là phần giao diện của 2 mặt: mặt trật tự tuyệt đối tức Chân như, mặt
kia là trật tự hiện tượng có nhân duyên sinh diệt. Trật tự tuyệt đối có phẩm
tính siêu việt nhưng không ở ngoài trật tự hiện tượng – và trật tự hiện tượng
tuy ở mặt thế tục nhưng không ở ngoài trật tự tuyệt đối. Thế cho nên, con người
hiện hữu trên giao diện này, mang 2 phẩm tính: phẩm tính của Chân như và bị chi
phối bởi phẩm tính hiện tượng, hữu hạn và phàm tục. Có thể gọi trạng thái tồn
tại đó là Như Lai tạng. Ngài Pháp Tạng định nghĩa Nhứt tâm là Như Lai tạng.
Theo Hoa nghiêm thì có 4 cách
nhìn pháp giới:
- Sự pháp giới: Đó là thế giới
hiện thực, bao gồm mọi sự vật trong vũ trụ trải qua trong không thời gian vô
tận.
- Lý pháp giới: là thế giới của
các trật tự, các nguyên lý trừu tượng, các đỉnh luật chi phối sự xuất sinh và
vận hành của sự vật hiện tượng và biến cố. Lý cùng pháp tính, là thể tính chân
thật của tất cả các pháp, là Tính Không.
- Lý sự vô ngại pháp giới: là Sư
và Lý hợp nhất, hổ nhập, hổ tức, hoàn toàn đồng nhất. Cũng có nghĩa mọi hiện
hữu các pháp đều do duyên sinh tương ứng với nguyên lý Tính Không của vạn hữu.
- Sự sự vô ngại pháp giới là thế
giới trong đó mỗi vật thể cá biệt này đồng nhất với vật thể cá biệt khác, chúng
tương giao vô ngại với nhau. Đây là mọi sự trực cảm qua kinh nghiệm tâm linh
chứ không thể thông qua sự suy tưởng của trí năng con người sống trong thế giới
hiện thực đa thù, đa sai biệt này. Phải thay đổi cách đứng, cách nhìn, đứng từ
bờ của Tính không và nhìn bằng vô phân biệt trí thì mới có nhãn quan Viên dung.
Có thể mô phỏng tóm tắt một ví dụ
trong kinh khi Đức Phật giảng giải cho Ngài A nan để có thể hiểu được viên
dung. Khi đào giếng để lấy nước, đào đất đến đâu thì hư không hiện ra đến đó. Hư
không đó do nhân đất mà ra, do nhân đào mà có, hay không do nhân gì cả mà tự
sinh?
Nếu mà tự sinh thì trước khi đào
tại sao nơi đó không trống rỗng chỉ thấy đất liền. Nếu do nhân đất mà ra thì
khi đất ra phải thấy đất ra, hư không vào. Còn nếu không thấy ra, không thấy
vào thì hư không với đất không khác tức là đồng – nếu đồng thì khi đất ra, sao
hư không lại không ra?
Nếu do nhân đào mà ra, thì đào
phải ra hư không, chứ không đào ra đất: đào là thật sự, hư không thì trống
rỗng, không có tác dụng gì với nhau, không hoà cũng không hợp, không lẽ hư
không, không do đâu mà tự ra. Như vậy hiện tiền của hư không và đất có tính
viên dung.
Trong Kinh Thủ lăng Nghiêm, ngài
Lê Đình Thám có tóm tắt kết luận: “Tóm lại, tất cả sự sự vật vật đều là pháp
giới tính trùng trùng duyên khởi. Trong pháp giới đó, một sự vật đối đãi hiện
ra các sự vật, các sự vật đối đãi hiện ra một sự vật, khi chúng ta đem thân
người mà đối đãi với hoàn cảnh thì hoàn cảnh đều hiện ra những đối đãi với thân
người, cả thân và cảnh đều theo nghiệp của người mà phát hiện…”.
*
* *
Trong thế giới hiện thực, mọi thứ
đều nhìn nhận do phân biệt mà ra. Suy nghiệm lại, trong đời sống hiện nay, cũng
chỉ vì phân biệt mà con người tàn sát, tranh giành, cướp bóc, tham nhũng… tự
trói mình bằng các thói quen do lầm tưởng trí năng trực tiếp được tương ứng với
thực tại khách quan, lầm tưởng rằng những dị biệt đó có thật và hầu như mục
tiêu tối thượng của đời sống là sử dụng trí năng phân biệt để kiểm soát thiên
nhiên, sản xuất đến tối đa sản phẩm tiêu thụ thoả mãn thị hiếu cá nhân, làm cho
tam độc tham lam, sân hận, si mê có nhiều cơ hội phát triển, rốt cuộc đưa đẩy
thân phận con người đến cùng cực, TCS đau đớn viết: “Trẻ thơ ơi, trẻ thơ ơi /
Tin buồn từ ngày mẹ cho mang nặng kiếp người“.
Thật ra mối quan hệ giữa suy tư
của trí năng và thực tại không đơn giản là một sự tương ứng – nhà khoa học mô
tả mối quan hệ đó bằng lý thuyết hay mô hình thông qua toán học – với mục đích
không phải phô diễn kiến thức về thế giới, về vũ trụ, mà nó thể hiện phương
cách quan sát, một phép quản chiếu. Tóm lại đó là một hình thái nhận thức, một
lối suy tư về thế giới, về vũ trụ. Vì vậy không có vấn đề lý thuyết nầy đúng,
lý thuyết kia sai, mà chỉ nói rằng lý thuyết này phù hợp với cảnh giới này mà
không phù hợp với cảnh giới kia. Nói rõ hơn, mỗi cách quán chiếu đều phơi bày
những dị biệt và phân biệt cùng thu nhiếp trong cảnh giới riêng của nó. Thực
ra, về mặt nhận thức luận, ta luôn luôn gắn các chủ quan vào mỗi hành vi nhận
thức, khi đó cái thế giới mà ta nói là khách quan chẳng qua chỉ là sự tái tạo
cái tâm tưởng giả hữu của ta. Trong thế giới thường nghiệm, tâm thức và thế
giới vật lý không ngừng câu khởi, không ngừng quan hệ với nhau trong không thời
gian. Bởi vì tâm thức là cái gì đó để hiểu biết thế giới nên khi không có tâm
thức thì không có thế giới thường nghiệm này, còn gọi là thực tại tương đối,
hay tục đế và thực tại tuyệt đối hay chân đế chính là Tính Không của thế giới
thường nghiệm đó.
Khi quán chiếu thành thói quen,
thấy được Tính Không là thực tại tuyệt đối, thực tại tối hậu của vạn pháp thì
sự bám víu ý tưởng cho rằng chúng thực có sẽ tan biến. Khi hai cực biên có và
không , không còn vọng khởi trong Tâm thì không còn gì khác có thể khởi lên
được nữa, Tâm sẽ hoàn toàn vắng lặng với một trạng thái an lạc và chứng ngộ
rằng những hoạt cảnh của giấc mộng trong đó được mất, vui buồn chỉ là giả dối
hư ảo.
Đặng Công Hanh
*
* *
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bản thiết kế vĩ đại: Hawking –
NXB trẻ 2012
2/ Luận giải trung luận: Nguyễn
Văn Hai – NXB Tu thư Phật học 2003
3/ Kinh Thủ lăng Nghiêm: Tâm Minh
Lê Đình Thám biên dịch – NXB Tôn giáo 2009
4/ Giai điệu dây: Brian Greene –
Phạm Văn Thiều dịch – NXB trẻ 2004