1.-Sự khác biệt giữa tự ngã lành mạnh và tự ngã không lành mạnh
Phật giáo nói về sự khác nhau
giữa cái “tôi’ quy ước (tục đế) và "cái tôi" không thật. "Cái
tôi" quy ước là "cái tôi" có thể quy cho sự tương tục không ngừng
của mỗi cá nhân – những thời khắc thay đổi [liên tục] của kinh nghiệm. Nói cách
khác, những thời điểm của những kinh nghiệm cá nhân của chúng ta đi theo từ
thời khắc này đến thời khắc khác theo luật nhân quả hành trạng (nhân như thế
nào cho quả như thế nào). Trên căn bản sự tương tục của những thời khắc này,
chúng ta có thể định danh “tôi.”
"Cái tôi" quy ước của
thế gian này thật sự tồn tại và trong dạng thức của "cái tôi" này mà
chúng ta có thể nói, “tôi đang ngồi; tôi đang ăn; tôi đang thiền tập.” "Cái
tôi" quy ước, tuy thế, chỉ đơn thuần là điều gì đấy có thể được quy cho sự
tương tục tinh thần của chúng ta: không có điều gì [cố hữu] có thể tìm thấy về
phía "cái tôi" quy ước, bằng năng lực của chính nó, làm cho "cái
tôi" tồn tại như như "cái tôi". Một "cái tôi" thật sự
tồn tại với điều gì đấy có thể tìm thấy về phía chính nó, thiết lập sự tồn tại
của nó, là không thể có. "Cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm thấy
hoàn toàn không hiện hữu; đó là "cái tôi" sai lầm, không có thật,
"cái tôi" bị bác bỏ.
Phương Tây, trái lại, nói về cá
tính(tự ngã) lành mạnh và cá tính không lành mạnh. Cá tính lành mạnh là cảm
giác của một "cái tôi" căn cứ trên "cái tôi" quy ước; trong
khi cá tính (tự ngã) không lành mạnh là ý nghĩa của cái “tôi’ sai lầm, không có
thật. Cá tính không lành mạnh có thể hoặc là một thứ phô trương hay không phô
trương. Cá tính không phô trương căn cứ trên sự tin tưởng "cái tôi"
thật sự tồn tại có thể tìm thấy; trong khi cá tính phô trương được căn cứ hoặc
là trên sự tin tưởng rằng ngay cả "cái tôi" quy ước là không tồn tại,
hay trên ý nghĩa được thiết lập rất yếu đuối của "cái tôi" quy ước.
[See: The Gelug Kagyu Tradition
of Mahamudra, Part I, Chapter 5.]
Đối với sự thực tập Phật Pháp
lành mạnh, chúng ta cần một cá tính lành mạnh, vì thể chúng ta chịu trách nhiệm
cho những gì chúng ta trãi qua trong đời sống. Trên căn bản của việc lãnh lấy
trách nhiệm này, chúng ta hình thành một phương hướng an toàn trong đời sống
của chúng ta (quy y Phật, Pháp, Tăng), hướng đến sự giải thoát và/hay sự giác
ngộ, và đi theo một phương thức thực tập đối với những mục tiêu này căn cứ trên
niềm tin vững chắc trong Phật tính của chúng ta và trên luật nhân quả nghiệp
báo.
Tuy thế, cho đến khi chúng ta
được giải thoát như những vị a la hán, chúng ta vẫn sẽ phải bám víu cho một sự
tồn tại thật sự có thể tìm thấy của một "cái tôi". Do bởi điều đó, sự
thực tập Phật Pháp của chúng ta bị trộn lẫn với một cá tính không lành mạnh một
cách không thể tránh khỏi. Nếu chúng ta tỉnh thức về những cung cách mà trong
ấy điều này xãy ra, chúng ta có thể cố gắng giảm thiểu tối đa sự tổn hại bởi sự
thiền tập trên điều đó và sự áp dụng những phương pháp tạm thời. Tuy thế, công
thức căn bản là sự thấu hiểu về tính không của tự ngã (cá tính).
2.- Những rắc rối sinh khởi từ cá tính (tự ngã) phô trương qua việc đồng
nhất với sự tồn tại thực sự của "cái tôi"
Một số người trở nên liên hệ với
Phật Pháp do bởi một số lý do nghiệp lực mà điều ấy làm cho họ tò mò và thích
thú trong Giáo Pháp, một khi sự thích thú ấy được thúc đẩy bởi một hoàn cảnh nào
đấy. Nhưng, một số tiếp cận Phật Pháp vì những lý do không ổn định căn cứ trên
cá tính (tự ngã) phô trương. Có ba hình thức thông thường của triệu chứng này.
Suy nghĩ về chính mình như một "cái tôi" thật sự tồn tại có thể tìm
thấy, chúng ta có thể hướng về Phật Pháp:
Để được chấp nhận bởi một nhóm
thân hữu nào đấy, bởi vì Phật giáo là phong trào và một số tài tử phim ảnh và
âm nhạc là những thành viên của Phật Pháp;
Để tìm một sự trị liệu mầu nhiệm
cho một vấn để cảm xúc và thân thể mà không có giải pháp nào khác để hổ trợ;
hay
Để thỏa mãn cho sự hấp dẫn trong
những thứ lạ lùng.
Một cách tổng quát, để tránh
nhưng hiểm họa có thể đến từ việc trở nên liên hệ với Phật Pháp cho bất cứ lý
do nào trên đây, chúng ta cần thể nghiệm và điều chỉnh động cơ của chúng ta.
Tuy thế, có những bước đặc thù tạm thời mà chúng ta có thể xem như sự vượt
thắng những “chuyến du hành-tự ngã” thông thường bị phối hợp với một trong ba
hình thức của tự ngã phô trương.
a- Muốn Là Một Bộ Phận của Đám
Đông
Với một ý nghĩa phô trương của
"cái tôi", chúng ta có thể cảm thấy tự đắc rằng chúng ta là một bộ
phận của những kẻ “giàu sang hay nổi tiếng hay tinh túy”. Để vượt thắng điều
này, chúng ta cần hoan hỉ rằng chúng ta đã tìm thấy Phật Pháp, hơn là cảm thấy
kiêu hảnh về điều ấy. Chúng ta có thể thiền quán về từ bi cho những người khác
vẫn chưa tìm ra phương hướng. Xa hơn, so sánh với những người khác những người
đã tiến xa trên con đường tu tập, chúng ta cần nhận thấy rằng chúng ta chỉ là
những thiếu nhi trong Phật Pháp. Vì thế không có gì căn cứ cho một càm giác
kiêu căng.
b- Muốn Tìm Một Phép Lạ Trị Liệu
Chán nãn để tìm một sự trị liệu
nhiệm mầu cho khổ đau của chúng ta thường đưa đến một cảm giác phô trương của
sự tự quan trọng. Chúng ta có thể trở nên quá bị bận tâm với chính mình cũng
như những rắc rối mà chúng ta cố gắng quản lý thời gian của vị thầy hay của lớp
học với những câu hỏi liên tục. Chúng ta muốn sự chú ý liên tục. Để vượt thắng
điều này, chúng ta cần nghĩ về sự bình đẳng của chính mình và những người khác.
Không ai muốn khổ đau và mọi người muốn được chửa trị.
Với một cảm giác phô trương của
cái “tôi,” chúng ta cũng có thể nghĩ rằng chúng ta giống như Milarepas – những
hành giả quá cấp tiến (chín háp) cho rằng chúng ta sẽ đạt đến giác ngộ một cách
chắc chắn trong chỉ một vài năm. Hậu quả là chúng ta đòi hỏi một sự chú ý đặc
biệt từ những vị thầy của chúng ta. Để chạy chửa cho sự phô trương tự ngã này,
chúng ta cần đọc tiểu sử của những đại đạo sư Phật giáo và nghiên cứu những
thiền giả thật sự giống như thế nào.
Cũng thế, bị tự bận tâm lo lắng,
chúng ta có thể quá liều lĩnh, rằng chúng ta sẽ làm bất cứ điều gì mà vị thầy
nói. Chúng ta có thái độ: “Chỉ nói cho con những từ ngữ mầu nhiệm để trì tụng
hay thực hành pháp thuật, và con sẽ làm điều ấy.” Với một tinh thần như thế,
chúng ta có thể lạy phủ phục 100.000 lần hay trì tụng mật ngôn Kim Cương Tát
Đỏa (Vajrasattva ), nhưng khi không có phép mầu xãy ra như một kết quả, chúng
ta rơi xuống một sự chán chường cùng tận. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần
nghĩ về một số lượng lớn của những nguyên nhân như thế nào phải theo đuổi để
mang đến một kết quả.
Chúng ta cũng chạy đôn chạy đáo
đến mọi lễ quán đảnh khai tâm được tổ chức, bởi vì biểu hiện quan tâm thái quá
về một "cái tôi" dường như tồn tại thật sự, chúng ta không muốn thiếu
vắng bất cứ điều gì. Chúng ta chạy vội vả điên cuồng như vậy do bởi muốn được
nhóm mình muốn tham dự thừa nhận, hay do bởi một sự cuồng nhiệt với những điều
kỳ lạ. Nhưng bất cứ lý do không chính đáng nào có thể, chúng ta cần nhớ rằng
một lễ quán đảnh vào trong một hệ thống bổn tôn là chỉ nhằm cho những ai thật
sự nguyện ước để thực hành về Đức Phật biểu tượng đặc thù ấy và có thời gian để
thực hành. Chúng ta cần thực tế về thời gian mà chúng ta có cho sự thực tập
hằng ngày. Sự khuyên bảo tương tự áp dụng đến những người chạy hết thầy này đến
thầy kia và rồi bối rối mờ mịt, hay những người chạy đi thọ giới - phát nguyện
mà không quan tâm đến việc mình có thể thọ trì được hay không.
c- Sự Quyến Rũ của Những Điều Lạ
Lùng
Với một sự quyến rủ đối với những
điều lạ lùng, chúng ta có thể tích lũy nhiều tối đa những pháp khí, tranh thờ
thangka, và v.v… như chúng ta có thể và rồi thì thu xếp một phòng thiền tập
trong nhà của chúng ta với sự trang trí như Hollywood
hay Disneyland . Sau đó chúng ta đặt thời khóa
biểu hằng ngày về việc thực hành cúng dường puja với chày kim cương, linh,
trống, đèn bơ và hương. Để vượt thắng hình thức tự ngã phô trương này, chúng ta
cần nhớ rằng mục tiêu côt yếu của sự thực hành Phật Pháp là để chuyển hóa tâm
thức, chứ không phải sắp đặt cho một màn trình diễn lạ mắt.
3.- Những rắc rối sinh khởi từ một cá tính tiềm ẩn (tự ngã không phô
trương)
Chúng ta có thể đến với Phật Pháp
do bởi một tự ngã tiềm ẩn, vấn đề ấy đến từ việc không có một cảm giác vững
vàng với "cái tôi" quy ước. Với một cảm giác yếu đuối với "cái
tôi", chúng ta có thể bị đẩy đến những giáo phái Phật giáo bởi một thủ
lĩnh hấp dẫn, người hứa hẹn với chúng ta rằng:
- Dòng truyền thừa mà họ dạy và
người khai sáng là nhất hạng, và bất cứ hình thức tâm linh nào khác là không
tốt.
- Họ là những vị thầy nhất hạng,
và tất cả những người khác là không tốt.
- Chúng ta sẽ trở nên mạnh mẽ nếu
chúng ta buông bỏ sự yếu đuối, suy nghĩ sai lầm của chúng ta và hoàn toàn vâng
lời họ như vị thầy của chúng ta và sự diễn dịch của họ về Phật Pháp là không
thể sai lầm được, và
- Nếu chúng ta đi theo một vị hộ
pháp tâm linh mạnh mẽ, vị siêu phàm này sẽ đập nát tất cả những kẻ thù của giáo
phái họ, vì tất cả những truyền thống những vị thấy khác là kẻ thù.
Những vị thầy như thế đòi hỏi một
sự trung thành hoàn toàn và sử dụng yếu tố sợ hãi của địa ngục, là những thứ mà
chúng ta sẽ rơi vào nếu không vâng lời. Những học nhân bị đẩy vào những thứ này
thường có cá tính yếu đuối, không có sự vững vàng, và bị hấp dẫn bởi những hứa
hẹn về sự đạt đến sức mạnh vô số và sức mạnh từ vị thầy, giáo huấn, dòng truyền
thừa và vị khai sáng của giáo phái ấy, và vị hộ pháp. Những học nhân bị kích
thích một định hình cá tính bởi toàn nhóm.
Triệu chứng này đưa đến cuồng tín
tôn giáo, căn cứ trên sự sợ hãi, mong ước để tốt chứ không xấu, mong ước được hài
lòng và để được chấp nhận cùng được vị thầy yêu mến cũng như nhóm ấy, và một
cảm giác tội lỗi nếu chúng ta không thực hành một cách toàn hảo. Tất cả những
điều này vô nghĩa, hay là một ý nghĩa rất yếu đuối, của một "cái tôi"
cá nhân quy ước của tục đế, và một sự bám víu đến một “cái nhóm- tôi” sai lầm.
Trong một ý nghĩa, chúng ta có thể gọi triệu chứng này là “phát xít tâm linh.”
Nó có thể xãy ra cho dù vị thầy có lừa bịp hay không, và cho dù chúng ta có
liên hệ trong một giáo phái Đạo Phật hay không.
Có nhiều loại triệu chứng khác
nhau cùng loại với triệu chứng này. Thí dụ, chúng ta cứng nhắc và không uyển
chuyển trong sự thực tập của chúng ta. Hay chúng ta thiết lập thời khóa mỗi
ngày quá dài, vì thế nó trở thành một gánh nặng và không có hỉ lạc trong ấy.
Chúng ta cần nhớ rằng một trong những điều hổ trợ cho nhẫn nại tinh tấn hoan hỉ
được biết khi để cho chúng ta thư thái và giải lao – và không cảm thấy tội lỗi
về việc làm như thế. Nếu chúng ta áp đặt quá nghiêm nhặt, chúng ta chỉ được
điều mà người Tây Tạng gọi là “lao phổi” (một năng lượng nãn chí trong cơ thể
của chúng ta) và nó là thối bộ. Một triệu chứng khác là chúng ta cố chấp những
cung cách khác nhau hay những loại thực tập khác nhau. Để đáp ứng với điều này,
chúng ta cần nhận ra rằng, với phương tiện thiện xảo, Đức Phật đã dạy nhiểu
pháp môn khác nhau để thích hợp với những người khác nhau. Nếu chúng ta loại ra
và xem thường chúng, thế thì chúng ta đang phủ nhận Giáo Pháp.
4.- Những hình thức dịu dàng của việc trộn lẫn cá tính với giáo pháp
Chúng ta có thể không quá bị quấy
rầy một cách nghiêm trọng với bất cứ những triệu chứng được đề cập bên trên,
nhưng nhiều người trong chúng ta có thể vẫn có những hình thức nhẹ nhàng của
việc trộn lẫn cá tính với sự thực hành Phật Pháp. Thí dụ, chúng ta có thể tiếp
cận “sự tích lũy công đức” giống như chúng ta đang cố gắng để thắng một cuộc
thi cử và trong ấy chúng ta đang thi đua với những hành giả khác. Hay chúng ta
có thể hành động để ‘tích lũy công đức” nhằm để “mua” con đường của chúng ta
đến giải thoát và giác ngộ, hay để để dành cho mùa đông, như những con sóc tích
trữ quả hạch, để bảo vệ chúng ta.
Trên một phương diện khác, chúng
ta có thể tránh không bị quá liên hệ với Giáo Pháp, bởi vì chúng ta sợ phải bỏ
đi một số thói quen thường ngày của chúng ta – cho dù chúng là những thói quen
cá tính lành mạnh hay không lành mạnh. Do thế, chúng ta có thể sợ phải mãi mãi
tiếp nhận những thệ nguyện hay những lễ quán đảnh. Về điều này chúng ta cần
phát triển sự tỉnh thức sắc bén để phân biệt những hành vi và sự thích thú nào
của chúng ta là lành mạnh và hữu ích, và những thứ nào là không lành mạnh và
tổn hại.
Cũng thế, chúng ta có thể có
những chướng ngại về những sự tiếp cận trí thức, xúc cảm, hay sùng mộ đến Phật
Pháp. Điều này sinh khởi khi chúng ta nhận ra chính mình hoàn toàn với một hay
hơn trong những loại tiếp cận này, hay chúng ta nhận ra mình như ai đấy không
thể có một hay hơn những điều này. Để vượt thắng điều này, chúng ta cần nhận ra
những lợi ích của mỗi một trong ba loại tiếp cận và nổ lực để trau dồi tối đa
sự cân bằng thực hành Phật Pháp mà mình có thể làm.
Những rắc rối khác của chúng ta
có thể sinh khởi bởi vì chúng ta không đặt để Phật Pháp ưu tiên đúng mức trong
đời sống chúng ta. Do bởi điều ấy, chúng ta không thực hành hằng ngày hay không
tiếp nhận sự thực tập hằng ngày và quyết tâm một cách nghiêm chỉnh. Chúng ta bỏ
thực tập khi chúng ta cảm thấy không thích làm điều ấy, và chúng ta vắng mặt
trong những buổi học khi chúng ta cảm thấy không hứng thú, hay có một lễ mừng
ngày sinh hay một bộ phim hay hoặc một buổi hòa nhạc trùng hợp thời gian. Điều
này có thể bởi vì chúng ta cảm thấy rằng để thực hành hay dự học Phật Pháp là
đang phải từ bỏ một số bộ phận quan trọng của “chính chúng ta”. Với điều này,
chúng ta cần phân biệt giữa những gì quan trọng trong đời sống và những gì
không quá quan trọng, và giữa việc khi chúng ta thật sự không thể thiền tập hay
đi đến lớp học Phật Pháp, và khi chúng ta chỉ lãng tránh do bởi lười biếng hay
dính mắc. Chúng ta cần tái khẳng định đời sống quý giá của con người, và nghĩ
về cái chết và vô thường.
Nếu chúng ta áp dụng những phương
pháp khác nhau này, chúng ta có thể tránh một số vấn đề mà chúng đến từ sự trộn
lẫn cá tính tự ngã với sự thực tập Phật Pháp của chúng ta.
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển