Trong nhiều cuốn sách, đặc biệt
là sách về triết học và luật học, cho đến tận ngày hôm nay, người ta vẫn còn
truyền tụng câu nói của Voltaire về cuốn “Luận về nguyên do của sự bất bình
đẳng” của Rousseau: “Tôi hoàn toàn không đồng ý với anh, nhưng tôi sẵn sàng hy
sinh tính mạng để bênh vực quyền tự do phát biểu của anh”.
Tại sao quyền được tự do phát
biểu lại quan trọng đến vậy? Một trong những người lý giải sâu sắc nhất vấn đề
này là nhà triết học Anh John Stuart Mill (1806 – 1873)- người cùng với John
Locke (1632 – 1704) xây dựng nền tảng lý luận cho thể chế dân chủ hiện đại.
Mill lập luận rằng trong mọi trường hợp, quyền tự do ngôn luận phải được tôn
trọng, bởi vì: 1) Đa số có thể sai; 2) Trong trường hợp đa số là đúng, thì ý
kiến bất đồng cũng giúp cho chúng ta hiểu vấn đề thêm sâu sắc; và 3) Ý kiến bất
đồng có thể chứa đựng ít nhiều chân lý.
Cơ sở của lời kêu gọi tôn trọng
tự do ngôn luận niềm tin vào lý trí của con người. Lý trí được các nhà tư tưởng
thời Khai sáng ở Châu Âu quan niệm như là một năng lực phổ quát mà nếu được sử dụng
tự do sẽ có khả năng giúp con người khám phá thế giới và hành động đúng đắn,
hợp với quy luật tự nhiên. Khai sáng- theo họ, là khả năng thoát khỏi tình
trạng vị thành niên về trí tuệ để “sử dụng tri thức của mình mà không cần sự
chỉ dẫn của người khác”. Lý do của tình trạng vị thành niên không phải là thiếu
lý trí, mà do thiếu quyết đoán và lòng dũng cảm để sử dụng lý trí một cách tự
do. (Ở Việt Nam ,
đầu thế kỷ XX, Tản Đà cũng có suy nghĩ rất gần gũi với tư tưởng của Kant khi
ông viết về tình cảnh nước nhà: “Dân hai nhăm triệu ai người lớn? Nước bốn
nghìn năm vẫn trẻ con”).
Tự do có mâu thuẫn với trật tự xã
hội hay không? Không- Kant trả lời. Theo ông, có hai cách sử dụng lý trí: Công
khai và riêng tư. Sử dụng lý trí công khai là sử dụng lý trí với tư cách của
học giả, hay trí thức, còn sử dụng riêng tư là sử dụng lý trí khi thi hành một
chức trách được giao. Kant viết: “Một công dân không thể từ chối nộp thuế...
Nhưng sẽ không có gì là trái với nghĩa vụ công dân khi chính con người đó- với
tư cách học giả, phát biểu công khai về những điều bất hợp lý hay thậm chí bất
công của thứ thuế này”. Việc phê phán công khai của các học giả sẽ dẫn đến tác
dụng điều chỉnh xã hội trong quá trình phát triển dài hạn. Kant khẳng định:
“Việc sử dụng lý trí một cách công khai phải luôn luôn tự do, và chỉ có nó mới
có khả năng khai sáng con người”.
Chính lòng tin vào lý trí của con
người đã là bệ phóng cho những lý tưởng và chương trình giải phóng vĩ đại của
phong trào Khai sáng như dân chủ, tiến bộ, bình đẳng, giáo dục phổ cập, đại học
hiện đại... Chính lòng tin vào lý trí đã đặt con người vào trung tâm của đời
sống tinh thần, thay cho Chúa trời để làm kẻ sáng tạo và làm chủ thiên nhiên,
xã hội và bản thân. Vì mỗi người ít nhiều đều trở thành Chúa trời, khác biệt
trở thành một đòi hỏi sống còn.
Thế nhưng trong xã hội hậu hiện
đại, tức là xã hội mà các quốc gia trên thế giới - ở mức độ khác nhau - đang
tiến vào, lòng tin vào lý trí bị coi là một thứ ảo giác. Theo các nhà tư tưởng
hậu hiện đại, không có chân lý tuyệt đối. Mọi giá trị chỉ là những kiến tạo xã
hội mà thôi.
Trong xã hội hậu hiện đại, sự phổ
biến của truyền thông và sự lên ngôi của lối sống tiêu thụ đã biến con người
thành nô lệ của hàng hóa - những thứ hàng hóa sản xuất hàng loạt. Trong bài
viết "Nét nhợt nhạt của đô thị hiện đại” đăng đã khá lâu, tôi có nhắc đến
bộ phim hài nổi tiếng của Liên Xô nhan đề “Số phận trớ trêu”. Nhân vật chính
của phim chuẩn bị cưới vợ. Trước khi về nhà ăn Tết và tổ chức đám cưới, anh ta
cùng mấy người bạn đi uống rượu và tắm hơi. Ra sân bay vội vã trong tình trạng
say mèm, đáng lẽ phải về với vợ chưa cưới ở Moskva, anh ta lại lên máy bay bay
về Leningrad .
Bởi vì tất cả các khu nhà tập thể ở Liên Xô giống nhau như đúc, với những hành
lang, cửa sổ, thang máy, chìa khóa, giường tủ… sản xuất hàng loạt, anh chàng
say rượu ung dung mở cửa, bước vào căn hộ người khác mà hoàn toàn không biết
mình nhầm. Anh ta cũng không biết rằng anh ta đang làm đảo lộn cuộc đời mình và
cuộc đời nữ chủ nhân, lúc đó đang đi sắm tết và cũng là chuẩn bị cho ngày cưới.
Bộ phim khiến ta bật cười, một cái cười thâm thúy, về sự đơn điệu của kiến trúc
và hàng hóa thời đại công nghiệp.
Sự đơn điệu là đặc điểm bao trùm
của không chỉ của kiến trúc đô thị và thế giới hàng hóa, mà của cả đời sống
tinh thần. Và đó là một phần của cái gọi là toàn cầu hoá về mặt văn hoá đang
trở thành một xu thế không thể cưỡng nổi. Ngày nay, người dân ở mọi nơi đều
đang hướng tới một cuộc sống vật chất và tinh thần giống nhau, nói đúng hơn là
đơn điệu giống nhau. Ở đâu cũng uống Coca Cola và nghe nhạc Mỹ, xem phim Mỹ.
Các cô gái Hàn Quốc đua nhau nâng mũi, nhuộm tóc, sửa cằm cho giống người Châu
Âu. Các cô gái Việt Nam- còn tệ hơn nữa- đua nhau copy các cô gái Hàn Quốc- vốn
đã là những người copy các cô gái phương Tây. Giới trẻ ngày nay rất hay nói đến
cá tính, đến quyền tự do cá nhân. Nhưng đó là cá tính ư, là tự do cá nhân ư?
Nhưng đó mới chỉ là bề nổi. Ở
tầng sâu hơn, đông đảo dân chúng – trong đó có cả các nhà báo, nhà giáo, nhà
văn, học giả… - đang trở thành những sinh vật nhai lại về mặt trí tuệ. Trong
cuốn sách nhan đề "Flat Earth News” (Tin tức trong thế giới phẳng), nhà
báo Nick Davies vạch ra vô số những tin tức được nhai đi nhai lại vô căn cứ.
Một ví dụ là sự kiện Y2K. Tháng 5.1993, tờ "Financial Times” của thành phố
Toronto đăng một bài báo ngắn về lời cảnh báo của Peter D. Jager, rằng vào đêm
giao thừa thế kỷ, các máy tính có thể sẽ gặp trục trặc khi chuyển từ năm 99
sang năm 00. Thông tin này nhanh chóng lan truyền và trở thành một cơn sốt.
Người ta tin rằng có máy bay sẽ rơi, có nhà máy điện hạt nhân sẽ nổ tung, có
tàu ngầm sẽ chìm, có ngân hàng sẽ sụp đổ kéo theo toàn bộ nền kinh tế… Một số
quốc gia bỏ ra những khoản tiền khổng lồ để chống lại thảm họa. Báo chí đưa tin
Chính phủ Anh bỏ 396 triệu bảng Anh, rồi 430 triệu bảng, rồi 788 triệu bảng. Họ
đưa tin rằng Hoa Kỳ bỏ ra 600 triệu đôla, rồi 858 triệu đôla. Trong khi đó, rất
nhiều nước – như Nga, Ukraina, Belarus, Moldova… - thật liều lĩnh, chẳng bỏ ra
đồng nào. Thế rồi cái đêm 31.12.1999 khủng khiếp ấy trôi qua mà không có một sự
cố nào. Nhưng điều đáng nói là buổi sáng đầu tiên của thế kỷ 21, cả thế giới
nhìn nhau, im lặng và nhanh chóng quên đi những cảnh báo thảm họa có một không
hai của thế kỷ.
Viết bài này, tôi muốn nói rằng
chúng ta đang sống trong một thế giới tràn ngập thông tin, nhưng chúng ta dường
như đang mất dần khả năng lựa chọn. Nói đúng hơn, chúng ta được định hướng để
lựa chọn các công ty và những nhà chính trị muốn chúng ta lựa chọn. Chúng ta đổ
xô đi mua cuốn sách “Harry Potter”, chẳng hạn, có phải vì nó hay hay không? Giả
sử chúng ta đổi tên cuốn sách thành “Ivan Ivanovitch”, liệu cuốn sách có thể
bán được 10 ngàn bản hay không? Tôi tin rằng không.
Như vậy, chúng ta lựa chọn không
phải với tư cách một người tự do, mà với tư cách một kẻ nô lệ tự nguyện về mặt
tinh thần.
Vậy làm sao để chống lại thứ nô
lệ tinh thần tự nguyện đó? Câu trả lời có lẽ lại phải tìm trong những trang
viết đã cũ kỹ của các nhà Khai sáng.