Sự tự do của tâm thức

Trong cuộc sống, phần lớn chúng ta dành rất nhiều thời giờ để sống cho lý tưởng của mình, và xã hội này đã cung cấp cho chúng ta rất nhiều lý tưởng để theo đuổi. Tự do là một trong những lý tưởng đó. Nhưng nếu chỉ theo đuổi mà không hiểu với trí tuệ ý nghĩa thực sự của lý tưởng đó thì không chóng thì chầy, chúng ta sẽ thất vọng, vì hình như cuộc đời này không bao giờ cho chúng ta tất cả tự do mà chúng ta mong muốn hay nghĩ là mình đáng được thọ hưởng.

1. Đi tìm tự do trong tham ái

Chúng ta có thể mãi mãi thất vọng với cuộc đời, không phải vì cuộc đời này là xấu xa và đáng chán, mà chính vì cuộc đời sẽ không cho chúng ta những gì chúng ta muốn hay nghĩ là chúng ta đáng được thọ hưởng. Chúng ta thường nghe chính bản thân chúng ta than phiền, "Cuộc đời này thật là không hợp lý và công bằng chút nào". Chúng ta cho rằng những gì xảy ra trong cuộc sống phải luôn công bằng và hợp lý. Tuy nhiên, khi nghĩ về điều này, bạn sẽ thấy trên đời này, có người thì sinh ra với tất cả những gì tốt đẹp nhất, có người thì vô cùng khổ sở và bất hạnh.

Quá nhiều bất công làm cho cuộc đời này thật là phi lý, phải không các bạn? Tại sao nước Mỹ không chịu giải trừ vũ khí? Tại sao người dân các nước Trung Đông cứ luôn đánh nhau, bỏ bom và phá hoại thành phố xinh đẹp như Beirut? Tại sao châu Phi bị nạn đói? Tại sao các nước Trung Mỹ luôn sống trong cảnh bất công và nghèo đói? Thật là không công bằng chút nào phải không các bạn? Đời sống quả thật là vô lý nếu nó cứ tiếp diễn như thế, và chúng ta muốn nó phải thay đổi. Tự do là cái mà chúng ta nhắm đến, nhưng chúng ta lại bị giới hạn và kiềm chế bởi những định chế xã hội và điều kiện vật chất của tấm thân làm người này.

Xuyên qua tất cả vấn đề trên, chúng ta thấy một nghịch lý bao trùm. Đó là tự do hành động theo bản năng, dục vọng, và tham ái hình như không mang lại tự do thực sự. Đây là điều mà tôi học được từ chính kinh nghiệm của đời tôi. Khi tôi nghĩ là tôi đang được tự do theo đuổi những gì mình muốn thì thật ra lúc ấy, tôi lại càng cảm thấy bấn loạn, mất phương hướng, và trở thành nô lệ của dục vọng. Trên đời này, những lựa chọn, những sự vật để lựa chọn, và những khả năng để lựa chọn là vô tận. Đây là xã hội mà chúng ta gọi là "xã hội tự do". Nhưng nếu chúng ta cứ chạy theo tất cả những lựa chọn và khả năng lựa chọn này, hình như chúng ta chỉ chuốc thêm rối rắm và hỗn loạn.

Trái lại, ở những xã hội có ít khả năng lựa chọn, đời sống rất đơn giản. Thí dụ, đời sống ở các tu viện rất là đơn giản vì ở đó bạn không có nhiều lựa chọn. Buổi sáng khi thức dậy, tôi không cần phải tự hỏi, "Sáng nay mình sẽ mặc áo gì?", "Mình sẽ chải tóc kiểu nào?". Đời sống tu viện quả thật không có nhiều lựa chọn. Vì thế, nhiều người xem cuộc sống giản đơn này là một loại hình phạt vì ở đó, mọi việc đều bị cấm đoán: bạn không thể làm việc này, và bạn không thể làm việc nọ. Nhưng giới luật nhằm đơn giản hóa đời sống tu viện là để giúp bạn phát triển đời sống tâm linh. Bạn không phải bận tâm quyết định và lựa chọn những kinh nghiệm sống liên quan đến ngũ dục. Khi đã từ bỏ tất cả để vào sống ở tu viện, chấp nhận nó, và không còn mong muốn những cơ hội để thực hiện những gì mình mơ ước, đời sống của bạn dĩ nhiên sẽ đơn giản. Nó sẽ trực tiếp, thẳng tắp và rõ ràng.

Chúng ta không thể tìm tự do trong tham ái và dục vọng mà chỉ có thể thấy được tự do trong giáo pháp. Trong giáo pháp, đời sống không dựa trên những lựa chọn đặt trên cơ sở yêu ghét, luyến ái và dính mắc. Khi chúng ta không còn bận tâm với vô số những lựa chọn về quan điểm, cơ hội, và tư tưởng mà chúng ta thường gặp trong các xã hội phức tạp thì sự đơn giản tự nhiên sẽ đến. Chính nhờ sự đơn giản và phương hướng đạo đức này mà tâm chúng ta được giải thoát. Chúng ta có thể đáp ứng và mở rộng với cuộc đời theo cách mà chúng ta không thể nào làm được khi đời sống bị ràng buộc bởi ái dục, bởi những lựa chọn dựa trên sự yêu ghét, và dính mắc cá nhân. Khi tâm đã mở rộng với cuộc đời, chúng ta sẽ nhận ra rằng sự tự do của tâm không tùy thuộc vào việc chúng ta có được tự do làm tất cả những gì chúng ta muốn.

Bất cứ sự tham ái nào xuất phát từ vô minh sẽ dẫn chúng ta đến một hành động hay một kinh nghiệm bất thiện. Với tâm tham ái này, chúng ta luôn muốn chiếm giữ, muốn xua đuổi, muốn loại bỏ, hay muốn bám chặt vào một cái gì đó, vì đây là bản chất của tham ái. Ngay lúc mà tham ái đã đạt được những gì nó mong muốn, nó sẽ bắt đầu mong muốn những thứ khác. Tôi chưa bao giờ thấy một lòng tham được thỏa mãn vì công năng của tham ái là chiếm hữu và chỉ bằng cách chiếm hữu, tham ái mới đem lại hạnh phúc và thỏa mãn nhất thời. Bạn có thể hài lòng và toại nguyện trong một khoảnh khắc nào đó khi bạn đạt được những gì bạn muốn, nhưng rồi tham ái lại bắt đầu làm việc, lo tìm kiếm và hướng về một cái gì khác để chiếm hữu và tiếp tục thỏa mãn bạn. Vì thế, bạn không thể nào thực sự toại nguyện ngay cả sau khi bạn đã có những gì bạn muốn như tài sản, của cải, quyền lực, danh vọng, và tất cả những gì tốt đẹp nhất trên đời. Thí dụ, nếu bạn làm ra được nhiều tiền thì liền ngay lúc ấy, bạn sẽ bắt đầu lo sợ bị mất tất cả tiền bạc và tài sản của mình. Nỗi lo sợ bị mất mát và lòng tham muốn được lợi lạc của con người là vô tận.

Ngày nào mà chúng ta còn sống với những ảo tưởng trong đó ái dục xuất phát từ vô minh vận hành và và chi phối, thì thế giới của chúng ta sẽ là thế giới huyễn ảo. Vì thế, tham ái không bao giờ mang lại tự do cho tâm của chúng ta; tham ái cho chúng ta hy vọng là mình sẽ có tự do trong tương lai. Nhưng nỗ lực tìm tự do qua con đường tham ái chỉ tạo thêm trói buộc và ảo tưởng mà thôi.

2. Mở rộng tâm để tiếp cận với pháp

Đức Phật thấy được những ảo tưởng đang kiềm chế và giam hãm chúng ta bằng cách xem xét và quán sát chính bản chất của tham ái, của những đau khổ do tham ái mang lại, và sự chấm dứt của tham ái. Khi quan sát tham ái, chúng ta thấy rằng nó không có gì khác hơn một luồng tâm thức đang di động hay một luồng năng lượng tâm lý đang chi phối thân và tâm chúng ta. Nó không phải là một người, hay một cái gì tuyệt đối, thường hằng, bất biến; nó sinh ra rồi diệt đi, đến rồi đi chính là luồng năng lượng tham ái. Nếu chúng ta không để cho luồng năng lượng tham ái tự ra đi, hay nói cách khác, nếu chúng ta không buông bỏ nó, thì nó sẽ tạo ra luồng tham ái thứ hai, luồng tham ái thứ hai này sẽ tạo ra luồng tham ái thứ ba, và tiến trình tham ái cứ thế mà tiếp tục nhân lên, sinh sôi nảy nở đến vô cùng.

Trong đạo Phật, từ "mindfulness" (tiếng Pali là sati) hay chánh niệm có nghĩa là "quán sát, cho phép các sự vật hiện ra trong thân và tâm rồi ý thức về nó, để cho các pháp tự xảy diễn ra trong thân và tâm như chính nó". Giờ đây để có chánh niệm, bạn phải cố gắng sống với thực tại, ngoại trừ khi có cái gì cực kỳ nguy hiểm và khẩn trương trước mắt mà bản năng sinh tồn bắt bạn phải chú ý đến nó. Trong điều kiện bình thường, bạn phải nỗ lực quan sát một cách khách quan, không thành kiến và phán đoán, những gì đang xảy ra. Chúng ta tập quan sát mà không phán xét, thay vì tự tạo ra một cái gì đó rồi tìm cách biện minh hay bảo vệ nó. Khi có chánh niệm và trí tuệ thì năng lực ghi nhận, khả năng cởi mở tiếp thu của tâm sẽ tự phát sinh. Chúng ta sẽ nhạy cảm khi tiếp nhận được cách thức vận hành của các sự vật. Nói tóm lại, chúng ta sẽ tiếp cận với Pháp, thấy Pháp, và sống với Pháp.

"Pháp" là một từ có ý nghĩa rất bao trùm. Pháp có nghĩa là "cách thức các sự vật thực sự tồn tại, không bị nhìn méo mó bởi bất cứ thành kiến nào". Pháp cũng có nghĩa là "quy luật tự nhiên". Khi quán Pháp, chúng ta không mang trong đầu ý niệm về Pháp như một cái gì đó. Nếu chúng ta định nghĩa Pháp là cái này hoặc là cái nọ, thì lúc đó chúng ta đang tìm kiếm Pháp, chứ không phải quan sát Pháp như nó đang xảy ra, phải không các bạn? Đó không phải là cách tiếp cận với Pháp hay chánh niệm về Pháp. Chánh niệm là mở rộng tâm để thấy và biết được Pháp như nó đang xảy ra tại đây và ngay bây giờ.

Chúng ta thường không để ý đến không gian và thời gian. Thân chúng ta có thể ở đây mà tâm chúng ta lại để ở chỗ khác. Thời gian là bây giờ, nhưng chúng ta ít khi thực sự sống với cái bây giờ; chúng ta phí nhiều thời gian trong đời để xây dựng những dự định về tương lai và hồi tưởng về quá khứ, nhưng chúng ta không bao giờ ghi nhận Pháp và những gì đang xảy ra tại đây và ngay bây giờ. Vì thế, chúng ta tiếp tục bị năng lực tham ái chi phối. Nếu chúng ta quán tưởng về điều kiện sống làm người của chúng ta tại đây và ngay bây giờ thì chúng ta sẽ thấy, biết và hiểu được tại sao các sự việc trên thế gian diễn ra như nó đang diễn ra trong hiện tại.

3. Ước nguyện của tâm

Trong xã hội hiện đại, chúng ta thấy con người tìm mọi cách để đấu tranh cho công bằng xã hội, xóa bỏ hay ngăn chặn những bất công tàn tệ. Đây là một việc làm cao thượng và trượng nghĩa mà con người luôn ca ngợi và ngưỡng mộ. Nhưng làm như thế vẫn không đủ. Nó chẳng khác nào việc dọn dẹp nhà cửa cho sạch sẽ, ngăn nắp. Khi phòng này vừa dọn sạch thì phòng kia lại dơ bẩn và bề bộn. Việc làm đó cũng giống như dùng bàn chải đánh răng để chà sạch thành phố Luân Đôn vậy. Đây là điều không thể làm được. Bạn sẽ không bao giờ hoàn thiện được cơ cấu xã hội để bảo đảm sự công bằng, bình đẳng, vì những cái xấu xa và bất thiện vẫn hiện ra.

Xã hội chỉ có thể trật tự, ngăn nắp, và công bằng khi tâm của những công dân trong xã hội ấy được trong sạch. Ngày nào mà tâm con người còn đầy ắp những tham ái, vô minh thì điều tối ưu mà chúng ta có thể làm được là dùng luật lệ để bảo đảm một số tiêu chuẩn nào đó về công bằng xã hội. Rồi thì, nếu một ai đó không đáp ứng những đòi hỏi tiêu chuẩn này, họ sẽ bị luật pháp trừng trị. Đó là điều tốt nhất chúng ta có thể làm. Chúng ta sẽ không bao giờ có được bình đẳng hay công bằng và lòng vị tha trong cõi Dục giới, vì những đức tính này chỉ có thể đến từ thế giới của Tâm, chúng không đến từ mắt, tai, mũi, lưỡi hay thân: chỉ có ở thế giới của tâm, mọi việc mới trở nên công bằng, bình đẳng, từ đó, tác động đến công lý, bình đẳng, lòng vị tha trong xã hội.

Ý nghĩa thực sự của Tâm là gì? Tâm dùng để chỉ trái tim, một bộ phận sinh học của cơ thể. Nó cũng có nghĩa là chất liệu tình cảm của con người. Trái tim thường hàm ý về cảm thọ. Thí dụ, khi thất vọng nặng nề, chúng ta nói "tim tôi bị vỡ (broken heart)". Chúng ta lại có thêm từ "Trí", để chỉ cái gì đó ít tình cảm hơn. Trí bao gồm quá trình làm việc bằng trí óc, tri thức, khả năng lý luận và tư duy của chúng ta. Tuy nhiên, khi nói về khả năng cảm nhận và đáp ứng với tình thương, chúng ta dùng chữ Tâm nhiều hơn chữ Trí.

Tất cả chúng ta ai cũng muốn có tự do, bằng cách này hay cách khác. Chúng ta hy vọng một người nào đó sẽ đến với chúng ta, thỏa mãn tất cả những nhu cầu của chúng ta, làm cho chúng ta vui sướng, như cô bé lọ lem mơ về vị hoàng tử duyên dáng lý tưởng của mình. Có thể chúng ta đang mong chờ một Đấng Cứu thế, hay là Phật tử, chúng ta sẽ hướng về Đức Phật Di Lặc tương lai, còn nếu là người công dân bình thường, chúng ta sẽ mong đợi một vị Thủ tướng hay Tổng thống có thể lãnh đạo và đưa đất nước đi trên con đường đúng đắn. Chúng ta luôn mong chờ một thế lực nào đó ở bên ngoài mà chúng ta chưa hề gặp và tin rằng thế lực đó có thể thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. Trên bình diện văn hóa, đức tin tôn giáo hay một đời sống tâm linh hướng thượng sẽ đáp ứng khát vọng tự do của con người. Những dục lạc của thế gian không bao giờ thực sự thỏa mãn được nhu cầu tự do của chúng ta, vì thế chúng ta tìm đến tôn giáo. Tôn giáo hướng về sự thánh thiện, hay cái gì đó cao hơn mà chúng ta phải vươn lên. Khi một cái gì đó làm bạn hưng phấn và mẫn cảm, thay vì sa đọa, tinh thần của bạn sẽ hướng thượng. Khi sa đọa, chúng ta sẽ chìm đắm trong sầu não, tuyệt vọng, cảm thấy mình xuống dốc và không còn giá trị. Chúng ta gọi hiện tượng này là "bị đọa địa ngục" (going to hell). Tim chúng ta vỡ nát, tinh thần chúng ta suy sụp, và bạn sẽ không còn mơ ước vươn đến cái gì đó cao hơn mình nữa.

Sự sinh và các thức sinh khởi khi lục căn tác động với lục trần, nó luôn củng cố, duy trì cảm giác bị chia cách và cô độc giữa con người. Các thức dựa trên các căn và trần cảnh, nó là cái gì đó độc lập, khác biệt, làm cho chúng ta cảm thấy xa lạ với môi trường chung quanh. Ở Dục giới, chúng ta luôn luôn có cảm giác bị cô lập, chia cách, căng thẳng và xung đột với cuộc sống chung quanh. Chúng ta có thể mơ ước và vươn đến những mục tiêu thế gian như sự giàu sang và danh vọng, nhưng điều này vẫn không đủ, cho dù chúng ta cố gắng đạt được một địa vị nào đó. Nhưng nếu suy nghĩ thật kỹ, chúng ta sẽ thấy địa vị thế gian này cũng không phải là những gì chúng ta thật sự mong muốn. Chúng ta có một khát vọng tự nhiên muốn vươn đến một cái gì cao hơn cuộc đời này, đó là mơ ước được hòa làm một, được đoàn tụ, thể nhập với tất cả, không còn bị chia cắt và cô lập nữa. Trong đạo Phật, đây là khát vọng hướng về Pháp, tiếp cận với Pháp và chân lý. Vì thế, với mơ ước này, chúng ta sẽ vươn lên cao thay vì bị ràng buộc và chìm đắm trong những đòi hỏi, ham muốn dục lạc của mình.

4. Hãy chấp nhận thân mạng thế gian này của chúng ta

Thân thể con người do tứ đại cấu tạo thành, đó là đất, nước, lửa, và gió. Chúng ta phải sống nhờ vào thực phẩm được trồng trọt và lớn lên từ quả đất này. Chúng ta cần nước, sức nóng của mặt trời, và không khí để thở. Khi chúng ta lìa bỏ cõi đời, những yếu tố này không bay lên thiên đường mà trở về với lòng đất. Vì thế, khi còn nương vào tấm thân này để sống trong thế giới ngũ dục, chúng ta phải chấp nhận những giới hạn của nó, thay vì mong muốn thoát ra khỏi nó và quay lưng lại với nó. Chối bỏ tấm thân này là ước mong hoang tưởng và ích kỷ. Chúng ta tuyên bố, "Tôi không thích thế gian này nữa. Tôi đã quá chán ngán tấm thân này. Tôi muốn được sống trong cảnh giới huyền diệu nằm ngoài thế gian này". Tư tưởng này xuất phát từ cái nhìn sai lầm về sự hiện diện của một cái ngã độc lập, từ tình cảm ghê tởm và chán ghét cái tự ngã cô lập đó, và khát vọng muốn có một cuộc sống tốt đẹp hơn, vi tế hơn. Như vậy, nó xuất phát từ tâm tham ái chứ không phải là ước mơ hướng đến một lý tưởng cao đẹp.

Trong khi hành thiền, một trong những bài học quan trọng là tập chấp nhận trái đất và tấm thân mà chúng ta nương nhờ vào đó để sống. Chúng ta tập quán thân rất nhiều, trong giai đoạn đầu, công phu hành thiền chủ yếu là quán sát thân thể vật lý. Chúng ta tập điều phục, an tịnh thân và tập xem trọng những nhu cầu của thân thể và không ép uổng thân thể phải chiều theo những dục vọng. Nếu không hiểu được sự vận hành của thân, chúng ta có thể rất tàn nhẫn, bỏ bê, coi thường những nhu cầu của nó. Thí dụ như khi thân bị đau nhức trong lúc hành thiền, chúng ta có thể ép thân thể ngừng hoạt động, đè nén sự đau nhức và tìm cách đi vào trạng thái xuất thần để quên đi cơ thể. Khi đói khát hay khi làm vệ sinh cá nhân, chúng ta lại ghê tởm và chán ngán cơ thể này. Làm như thế có công bằng và hợp lý không các bạn? Chúng ta vừa đi vào một trạng thái khinh an, phỉ lạc, bất thình lình, chúng ta lại phải đi nhà vệ sinh. Làm như vậy thật là phi lý!

Khi hành thiền, mục đích của việc quán thân không phải để tiến đến một thái độ chiều chuộng hay chống đối cơ thể, mà chính là để thấy, biết, và hiểu được cơ thể. Cơ thể là như thế đó. Không nghĩ về cơ thể như một cái gì của riêng mình, cho dù nó có đẹp đẽ hay xấu xí, chúng ta chỉ cần quán thân thể như là thân thể, thế thôi. Chúng ta không nhìn thân thể của tôi để so sánh với thân thể của anh. Chỉ có tấm thân vật lý, nó mới cảm thọ như thế này; nó là như thế này; và nó vận hành như thế này.

Khi chấp nhận thân thể như là thân thể, thì nó sẽ không còn là vấn đề khó khăn cho chúng ta nữa. Thân thể sẽ gây khó khăn nếu chúng ta không chấp nhận nó, chối bỏ nó, ca tụng và chiều chuộng nó, hay làm điều không phải đạo với nó. Nếu không chấp nhận nó, cơ thể có thể sẽ đầy ắp những khó chịu và đau khổ mà chúng ta phải chịu đựng. Nhưng cơ thể tự nó sẽ không là trở ngại khi chúng ta chấp nhận nó, hiểu biết nó. Đây chính là điều mà tôi muốn nói khi khuyên các bạn hãy chấp nhận thân mạng thế gian này, với tất cả những gì đến với nó: đó là quá trình sinh, già, bệnh, và chết của cơ thể. Mọi việc đều phải xảy ra như thế. Khi chúng ta thấy được sinh, già, bệnh, chết như là sự vận hành của Pháp, thì quá trình sanh tử không còn là vấn đề nữa. Nó chỉ là Pháp thế thôi.

5. Hướng đến sự thánh thiện

Thân thể tự nó không phải là cứu cánh. Cho dù đẹp đẽ hay xấu xa, thân thể này thực sự không phải là chúng ta, vì thế, chúng ta không dễ gì hài lòng và toại nguyện với nó. Vì thân thể không phải là chúng ta, nên chúng ta sẽ không bao giờ thực sự cảm thấy nó hay trái đất này là mái ấm, là nơi nương tựa đáng tin cậy của mình. Trong chúng ta, luôn có ước vọng hướng về một cái gì đó cao thượng, vi tế và thoanh thoát hơn.

Khi quan sát cuộc sống trên trái đất, chúng ta thấy những gì? Nếu nói về thú vật, chúng ta sẽ thấy thú vật chỉ lo làm sao để sống còn: chúng phải lớn mạnh, khôn ngoan, gian xảo hay dựa vào số đông để tồn tại. Thú vật không thể thỏa thuận với nhau về bất cứ điều gì, vì thế, không thể nói chuyện luật lệ với thú vật. Thí dụ thú vật không thể đồng ý với nhau là chúng sẽ không giết hại lẫn nhau. Ngay cả con người còn chưa đạt được thỏa thuận đó, huống hồ là loài thú phải không các bạn? Con người là những sinh vật rất độc ác, sẵn sàng giết hại lẫn nhau, và tàn sát các sinh vật khác, nhưng con người vẫn có thể vưọt lên thú tính đó. Nếu chỉ là thú vật thì con người không thể nào nghĩ được điều gì tốt đẹp hơn cả. Sẽ chỉ có luật rừng xanh, và sự tồn tại của kẻ mạnh; con người sẽ không thể hình dung được cái gì cao hơn cảnh giới của loài thú, nhưng con người có thể vượt lên được. Tâm trí con người có thể nghĩ đến công lý và bình đẳng. Đó chính là ước vọng tâm linh hướng về một cảnh giới cao thượng, hơn là chỉ biết đến sự tồn tại và sống còn của con người.

Một tâm hồn sa đọa và hạ tiện sẽ lý luận rằng con người cơ bản chỉ là một con thú; sẽ chỉ có sự tồn tại của kẻ mạnh nhất, đó là quy luật tự nhiên. Lý luận này cho rằng con người không hơn con vật, và chúng ta phải chấp nhận điều này. Chúng ta phải cố hết sức tranh sống để giành giật cho chính mình hầu tồn tại. Một tâm hồn hạ tiện và sa đọa sẽ biện minh rằng: "Tôi đã giành được phần của tôi. Nếu bạn ngu si và yếu ớt, không thể giành phần cho bạn, thì phải ráng mà sống với số phận hẩm hiu của bạn; đây là điều đáng buồn nhưng cuộc đời là như thế". Đây là cách suy nghĩ bi quan dựa vào thuyết định mệnh của một tâm hồn thấp hèn. Nhưng từ tận đáy lòng của tôi, tôi biết rằng tôi muốn vươn lên và hướng về một cái gì cao thượng hơn là cái nhìn bi quan trên, và tôi thấy chung quanh tôi cũng có những người đang suy nghĩ theo chiều hướng ấy. Con người là chúng sinh có thể hướng về sự thánh thiện.

Chúng ta nên hiểu chữ hai chữ thánh thiện như thế nào? Đạo Phật không nói nhiều về sự "thánh thiện" hay cảnh giới "thánh thiện". Nhiều người tìm đến đạo Phật sau khi họ đã thất vọng ê chề với những điều thiêng liêng và thánh thiện mà người đời thường ca ngợi. Tất cả những gì mà người đời nói về Thượng đế và những gì xảy ra sau khi chết đã làm cho họ chán ngấy. Họ hoàn toàn mất tin tưởng vào sự thiêng liêng và thánh thiện. Họ muốn tìm một cái gì đó thực tế hơn. Họ không muốn tìm một cái gì đó sau khi chết hay trong kiếp sau, vì đó là những gì mà họ không thể thấy, biết, và sờ mó được. Nhưng nếu quả thực không có sự thiêng liêng và thánh thiện thực sự, thì làm sao con người có thể nghĩ đến hay hình dung ra được khái niệm này. Con người chỉ có thể suy nghĩ về sự thánh thiện khi nào họ đã thực sự biết được và có kinh nghiệm với sự thánh thiện, dù chỉ trong chớp mắt hay trong một phút giây phù du ngắn ngủi nào đó.

6. Sống thánh thiện với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, và tâm xả

Tâm từ của một bà mẹ đối với đứa con thân yêu của mình là biểu hiện của sự thiêng liêng và thánh thiện phải không các bạn? Đó là một kinh nghiệm thiêng liêng và thánh thiện. Đối với tôi, quên mình để hiến dâng, chỉ vì một người nào đó cần đến. Hy sinh những đặc ân và tiện nghi cá nhân để phục vụ người khác là biểu hiện của sự thánh thiện. Khi chúng ta thực sự ứng xử với cuộc đời một cách công bằng và chân thật; khi không còn bị thành kiến và thiên vị chi phối, khi có sự hoan hỷ, quân bình, và xả bỏ trong tâm, khi tâm thanh tịnh không bị những phiền não chi phối, lúc ấy, chúng ta sẽ tiếp cận với sự thiêng liêng và thánh thiện.

Thay vì nói chúng tôi hướng về sự thiêng liêng và thánh thiện, người Phật tử nói, "Chúng tôi muốn tiến đến giải thoát và Niết bàn". Thế thì Niết bàn là gì? Niết bàn là trạng thái trong đó chúng ta không còn bám víu, chấp chặt và quyến luyến vào bất cứ điều gì. Khi ở trong trạng thái đó, chúng ta sẽ là một người vị tha đầy lòng từ, bi, hỷ, xả. Chúng ta sẽ tiếp cận với một cái gì đó cao thượng, thánh thiện và thể nghiệm được sự thoải mái, bình yên, khinh an thực sự.

Bạn chờ đợi những gì ở một vị thánh nhân? Thí dụ, khi nghĩ đến Đức Chúa Jesus, có lẽ bạn sẽ nghĩ về lòng bi mẫn bao la của Ngài. Do đó, nếu có một thánh nhân thì tâm bi mẫn phải là một trong những đức tính của vị đó. Khi quán tâm, tôi thấy là khi tâm tham ái vắng bóng thì tâm bi mẫn sẽ xuất hiện trong tôi. Tôi không cố ý tạo ra tâm bi mẫn; nó đến một cách tự nhiên. Khi không có tâm tham lam, ích kỷ luôn muốn chiếm hữu một cái gì đó thì tâm bi mẫn, trước những khổ đau và hỗn loạn của tất cả chúng sinh sẽ xuất hiện. Tâm bi mẫn này không phải tình cảm xuất phát từ một khái niệm đạo đức cho đây là việc cần phải làm; không phải như thế. Tâm bi mẫn đến từ sự hiểu biết về sự vận hành của vạn pháp, về những đau khổ xuất phát từ vô minh đang tồn tại trên thế gian này.

Trái lại, lòng thương hại bắt nguồn từ nỗi lo sợ cho chính mình. Khi có ai đó mắc bệnh ung thư, chúng ta nghĩ: "Ôi, tội nghiệp cho người ấy quá; tôi mừng vì đã không mắc phải bệnh ấy. Hy vọng là tôi sẽ không bao giờ bị bệnh ung thư cả". Khi nói ra điều trên, chúng ta đã áp đặt tư tưởng của mình lên người khác (chúng ta cho bệnh ung thư là một điều bất hạnh và chúng ta là người may mắn vì đã không mắc bệnh ung thư). Đó không phải là tâm bi mẫn. Tâm bi mẫn là tâm thực sự mở rộng để tiếp cận với sự đau khổ của người khác, không phải để mong cầu lợi lạc mà là vì ước nguyện sẵn sàng kiên nhẫn và chia sẻ nỗi đau khổ mà người khác đang chịu đựng. Chúng ta sẵn sàng chia sẻ và chịu đựng những sự bất hạnh, đau buồn, khổ sở đang diễn ra chung quanh chúng ta, mà không tìm cách trốn tránh, buộc tội và đổ lỗi cho ai cả. Đó chính là tâm bi mẫn; tâm bi mẫn cũng là một phẩm chất của sự thánh thiện.

Đối với tôi, tâm hoan hỷ xuất hiện khi bạn tiếp xúc được với những gì Chân-Thiện-Mỹ trong cuộc sống. Đó là một tình cảm rất tích cực và không xuất phát từ tâm tham ái vì tâm hoan hỷ và tâm tham ái đối nghịch và loại trừ lẫn nhau. Có tâm tham thì không có tâm hoan hỷ và ngược lại. Tâm hoan hỷ là cái gì tự phát liên quan đến cái đẹp, cái thiện, và cái chân thật có mặt trong con người và trong tất cả sự vật tồn tại trên đời. Có tâm hoan hỷ thì tâm ganh tỵ và ghen ghét hoàn toàn vắng mặt vì những tâm sở bất thiện này xuất phát từ lòng ham muốn cá nhân. Nếu chúng ta vẫn còn mang cái nhìn chấp ngã, thì khi thấy một ai đó thực sự có sắc đẹp và đạo đức toàn hảo, chúng ta sẽ khởi tâm ganh tỵ và nghĩ, "À, ông ta tốt và giỏi hơn tôi". Rồi chúng ta lại tiếp tục suy nghĩ, "Ôi, ông ta có thể giỏi, nhưng ông ta có thể...". Chúng ta đang tìm cách hạ thấp và dìm người đó xuống, phải không các bạn? Với tâm tham ái, chúng ta chỉ lo chiếm hữu những điều Chân-Thiện-Mỹ và chỉ khi nào chiếm hữu được chúng, chúng ta mới có thể thưởng ngoạn chúng. Đó không phải là tâm hoan hỷ bởi đó chính là tâm tham ái. Tâm hoan hỷ chân thật là một phẩm chất của sự thánh thiện.

Tâm quân bình, an tịnh chỉ xuất hiện khi chúng ta lắng dịu và mát mẻ. Tâm quân bình và xả bỏ có thể tiếp cận với cuộc sống, với sự vận hành của các pháp mà không bị dính mắc. Lúc đó, tâm sẽ quân bình, thấy biết, và chiếu sáng rạng rỡ. Đó cũng là một phẩm chất của sự thánh thiện.

Tự do là Niết bàn, là sự chứng ngộ được trạng thái xả bỏ tất cả, lúc đó chúng ta sẽ thực sự sống với tâm từ, tâm bi, tâm hỷ, và tâm xả. Chúng ta có thể bàn về tự do dựa trên nguyên tắc công lý và bình đẳng, nhưng nội dung chính mà tôi muốn nói đến ở đây là ước vọng vươn lên, hướng về sự thánh thiện, sự đồng nhất và hòa hợp với đại thể của con người.

Thế thì tự do của tâm là gì? Theo tôi, đó là sự tự do lựa chọn hoặc đi vào con đường sa đọa hoặc hướng đến sự thiêng liêng và thánh thiện. Bạn sẽ chọn hướng nào? Trong bất cứ giây phút nào của cuộc sống, bạn cũng có thể làm sự lựa chọn này. Hoặc là bạn sẽ tiếp tục than vãn về số phận của chúng ta, suy nghĩ về tất cả những gì chúng ta không yêu thích và tất cả những gì sai trái trên thế gian này, hoặc là bạn sẽ chánh niệm và quán tưởng về Pháp, cố gắng hiểu nó và nuôi dưỡng ý nguyện hướng về con đường thánh thiện trong tâm của mình.

******

Câu hỏi: Khi nói đến tự do, tôi thường nghĩ đến cái gì đó rất hồn nhiên và tự phát. Nếu phải luôn luôn chánh niệm, quán sát và ghi nhận tất cả trước khi hành động, thì có phải điều đó sẽ làm mất đi sự hồn nhiên và tự phát trong chúng ta hay không?

Không, nhưng bạn vừa nêu ra một vấn đề về ngôn từ. Khi bạn nói "quán sát và ghi nhận", điều này hình như hàm ý là có một ai đó đang bận bịu làm một cái gì đó. Tuy nhiên, chánh niệm không có nghĩa là bạn sẽ trở thành một người nào đó bận bịu với việc quán sát đến nỗi bạn không thể ứng xử với hoàn cảnh chung quanh. Sự hồn nhiên và tự phát phải đến từ tâm tín thành, phải không các bạn? Bạn không thể dựa vào một khái niệm hay một tư tưởng nào đó về cuộc đời rồi cố gắng trở nên hồn nhiên và tự phát.

Để trở nên tự phát và hồn nhiên, bạn phải có đức tin, trong đạo Phật, nền tảng của đức tin là Tam bảo (Phật-Pháp-Tăng). Khi đã tin tưởng vững chắc nơi Tam bảo, chúng ta không cần phải nghi ngờ hay lo âu về cuộc đời. Sự tự phát và hồn nhiên xuất phát từ niềm tin đó, niềm tin đó không dựa trên nhân sinh quan chấp ngã. Chỉ thuần quán sát hay chánh niệm sẽ cho giúp chúng ta ứng xử với cuộc đời một cách hồn nhiên, vì chúng ta đặt niềm tin nơi Phật-Pháp-Tăng. Chúng ta trở nên hồn nhiên, vì chúng ta không còn ảo tưởng về cái tôi cần phải được bảo vệ. Toàn bộ tư tưởng sai lầm cho rằng: "Tôi là một con người, tôi phải luôn luôn cảnh giác để bảo vệ tôi khỏi những thế lực xấu ác, nếu không tôi sẽ bị chúng áp đảo và chế ngự" sẽ hoàn toàn tan biến. Chỉ có sự nhận thấy, sự hiểu biết, sự thanh tịnh của tâm mới là nơi mà chúng ta có thể tin tưởng và nương tựa. Những gì còn lại của cuộc sống tự nó sẽ vận hành theo quy luật của nó và chúng ta không cần phải can thiệp vào.

Tổ phiên dịch Trúc Lâm chuyển ngữ
Previous Post
Next Post